Sự thành lập Ni đoàn và tầm quan trọng của Bát kỉnh pháp
Phụ nữ bị kỳ thị trong xã hội Ấn Độ cổ đại và Đức Phật là người đầu tiên đã mở ra một cuộc cách mạng bình đẳng giai cấp, bình đẳng giới lúc bấy giờ. Giáo pháp của Đức Phật nhấn mạnh đến sự làm chủ bản thân và tự tu tập giải thoát.
Đức Thế Tôn đã mở ra lối đi mới cho phụ nữ, giúp họ vượt qua ranh giới bất bình đẳng. Ngài đã cho phép thành lập Ni đoàn và đề ra Bát kỉnh pháp để Ni đoàn thực hiện, nhằm giúp Chánh pháp trường tồn.
Đôi nét xã hội thời Đức Phật và nguyên do Phật chế Bát Kỉnh pháp
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội đều bị xem thường, không được tham gia các công việc cộng đồng, nghi lễ tôn giáo. Đặc biệt còn có quan điểm cho rằng nữ giới là nguồn gốc của tội lỗi và các ác nghiệp. Kinh Vệ Đà cho rằng: “Người nữ là nguồn gốc của mọi sự rắc rối cho chính đấng sanh thành tạo ra và họ chỉ là kẻ sinh con cho cha mẹ chồng,..”. Còn Kỳ Na giáo thì cho rằng: “Người phụ nữ là ngọn đèn chiếu sáng con đường dẫn đến cánh cửa địa ngục” [1]. Theo tục lệ Sati, người vợ phải bị thiêu sống để đi theo người chồng đã chết: “Phụ nữ, khi còn bé phải theo cha, còn trẻ phải theo chồng, chồng chết phải theo con. Phụ nữ không được phép sống độc lập” [2]. Như vậy, vào thế kỷ VI TCN ở Ấn Độ những quan niệm tiêu cực về phụ nữ đã ăn sâu vào tôn giáo và tư tưởng của mọi người, ý tưởng giải phóng phụ nữ của Đức Phật chưa thể một sớm một chiều thay đổi quan niệm toàn bộ cộng đồng xã hội được. Không phải Đức Phật không chấp nhận cho người nữ gia nhập Tăng đoàn mà chính xã hội và con người Ấn Độ là trở lực lớn. Ấn Độ lúc bấy giờ chưa có sự xuất hiện của nữ tu nào trực thuộc tôn giáo cả. Muốn cho người nữ gia nhập vào Tăng đoàn, Đức Phật phải đợi nhân duyên chín muồi.
Mahāpajāpati Gotamī cầu Pháp đức Phật
Mahāpajāpati Gotamī (phiên âm là Ma Ha Ba Xà Ba Đề), dịch là Đái Ái Đạo, hoặc Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di. Bà sinh ra và lớn lên ở Devadaha, con vua Suppa Buddha, là em gái của Hoàng hậu Mahà Mayà. Sau khi sanh Thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày thì Hoàng hậu Mahà Mayà qua đời và bà trở thành nhũ mẫu chăm sóc và nuôi dưỡng Thái tử khôn lớn. Đến tuổi thành niên Thái tử xuất gia tầm đạo, trong thời gian đó bà vẫn ở hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ với vua Suddhodana. Sau khi thành đạo khoảng ba năm, lần đầu tiên Đức Phật trở về hoằng hóa tại quê hương đồng thời thăm viếng vua cha và hoàng tộc. Vào lần đó, sau khi bà nghe Đức Phật thuyết pháp thì chứng đắc Sơ quả [3].
Vào năm thứ năm sau khi thành đạo, Đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la-vệ. Lúc bấy giờ vua Suddhodana lâm bệnh nặng nên sai đại thần Mahanama thỉnh Đức Phật về cung để được gặp mặt lần cuối. Sau khi vua băng hà, Mahāpajāpati Gotamī đã xin Phật xuất gia. Bà đã ba lần thỉnh cầu nhưng đều bị Đức Phật từ chối. Kinh Trung A Hàm kể lại sự kiện này như sau: “Một thời Đức Phật trú Thích-ki-sấu, tại Ca-duy-la-vệ, vườn Ni-câu-loại, cùng với đại chúng Tỳ kheo đồng thọ hạ an cư. Bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái đi đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên mà bạch rằng: Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả Sa-môn thứ tư được chăng? Do nhân duyên này nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng? Đức Thế Tôn nói: Thôi! Thôi! Cù-đàm-di, Người chớ nên nghĩ rằng nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Cù-đàm-di, Người cứ như vậy mà cạo bỏ đầu tóc, khoác áo cà sa, suốt đời tịnh tu phạm hạnh. Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bị Phật ngăn cản, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra” [4]. Chúng ta có thể thấy được sự quyết tâm từ bỏ đời sống vương quyền trưởng giả của Mahāpajāpati Gotamī mong được sống đời sống thanh tịnh của người xuất gia.
“Sau đó, Đức Thế Tôn cùng Tăng đoàn tiếp tục du hành đến Vesali. Thế Tôn ở Vesali, tại Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahāpajāpati Gotamī, với tóc cạo sạch, đắp áo cà sa, cùng với nhiều nữ nhân Sakya ra đi đến Vesali, tiếp tục bộ hành và đến Vesali, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahāpajāpati Gotamī, với chân bị sưng, tay chân lấm bụi, khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than đứng ngoài cửa chính” [5].
Về sự từ chối của Đức Phật đối với việc cho người nữ xuất gia, một số ý kiến cho rằng hành động này là gây khó dễ cho phái nữ. Tuy nhiên chúng ta nên cân nhắc hoàn cảnh bấy giờ. Vì khi ở tại kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, nếu Đức Phật cho phép người nữ xuất gia ngay sẽ tạo thành tiền đề cho sự công kích của các thế lực ngoại đạo, họ sẽ nói Đức Phật thiên vị cho hoàng tộc mà cho người nữ xuất gia. Ngài muốn để họ tự chứng kiến thấy được sự quyết tâm xuất gia của Mahāpajāpati Gotamī và năm trăm phu nhân dòng họ Thích. Sau khi bị Đức Phật từ chối, họ đi bộ một đoạn đường khá dài từ thành Ca-tỳ-la-vệ đến Vesali để gặp Đức Phật xin xuất gia lần nữa. Số năm trăm người nữ cùng đi ngoài đường cạo bỏ mái tóc đẹp, khoác áo cà sa là điều mà dân chúng chưa bao giờ được chứng kiến. Tất cả ánh nhìn đổ dồn về đoàn người của Mahāpajāpati Gotamī với đủ mọi thắc mắc, tò mò.
Sự kiện Ni giới nhận lãnh thêm Bát Kỉnh pháp
Lời thỉnh cầu của tôn giả Ananda
Tôn giả Ananda ủng hộ và giúp đỡ để giáo đoàn đầy đủ bốn chúng. Sự ấy đã được ghi lại: “Ananda thấy Mahàpajàpatì Gotamì với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau sầu bi, những giọt nước mắt đầy mặt và than khóc đứng ngoài cửa, thấy vậy liền nói với Mahàpajàpatì Gotamì vì sao lại đứng ở cửa với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau sầu muộn nước mắt đầy mặt, khóc than như vậy […] sau đó Ananda thưa hỏi Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Mahàpajàpatì đã giúp đỡ Thế Tôn rất nhiều trong vai người dì, người vú, người kế mẫu, khi mẹ của Thế Tôn mệnh chung, lại cho Thế Tôn bú sữa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng” [6].
Theo Ngài, có hai lý do để người nữ được xuất gia. Một là, người phụ nữ nếu có cái nhìn thấu đáo và vững tâm cũng có thể chứng quả giải thoát trong hiện tại. Hai là, Hoàng hậu Mahàpajàpatì Gotamì có công lớn trong việc dưỡng dục Thái tử. “Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, Đức Thế Tôn cũng vẫn nói: Này Cù-đàm-di, hãy đem y này dâng cúng cho Chúng Tỳ kheo. Dâng cúng cho Chúng Tỳ kheo tức là đã cúng dường Ta, cũng như đã cúng dường Đại chúng. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng phía sau Đức Thế Tôn, cầm quạt hầu Phật, liền thưa rằng: Bạch Thế Tôn, Đại Sanh Chủ Cù-đàm-di đã đem lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích, đã bảo dưỡng Thế Tôn sau khi thân mẫu Thế Tôn qua đời” [7].
Cuối cùng, Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của Tôn giả Ananda và đồng ý cho bà Cù-đàm-di xuất gia. “Đức Phật không hạn chế các vị bổn sư Tỳ kheo ni nhất định là A La Hán, nhưng nhấn mạnh ở tâm phẩm cách. Tuy phẩm cách tượng trưng cho bậc Thánh, nhưng phàm Tăng hội đủ đức hạnh đặc biệt như Ananda cũng có thể hướng dẫn các hàng Tỳ kheo ni… Thành tựu bao nhiêu pháp, bạch Thế Tôn, Tỳ kheo nên được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỳ kheo ni? Này Ananda, thành tựu tám pháp, Tỳ kheo nên được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỳ kheo ni … thành tựu tám pháp này, này Ananda, vị Tỳ kheo được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỳ kheo ni” [8].
Theo TT. Thích Hạnh Bình, ẩn sau nội dung mà Tôn giả A Nan thưa thỉnh với Đức Phật được chép trong kinh là vấn đề: “Nên chăng cho nữ giới xuất gia với điều kiện cuộc sống định cư” [9]. Tăng đoàn thời ấy là “cuộc sống vô gia cư, chủ yếu là họ sống trong rừng ngủ dưới gốc cây, di chuyển liên tục từ nơi này đến nơi khác, nó chỉ phù hợp với đời sống của người nam” [10]. Có thể đây cũng là lý do nhiều lần Đức Thế Tôn không đồng ý cho bà xuất gia, vì khi chấp nhận cho bà xuất gia là chấp nhận cho toàn bộ nữ giới xuất gia và thừa nhận sự thành lập Ni đoàn. Khi ấy, buộc phải có một đời sống ổn định cho Ni giới và như vậy nó khiến đời sống tu tập vốn có của Tăng đoàn bị thay đổi. Không chỉ Đức Phật phải đối diện với phản ứng của xã hội mà sự phản đối cho nữ giới xuất gia cũng xuất hiện ngay trong giáo đoàn của Ngài. Vì Tăng đoàn của Đức Phật có đầy đủ các thành phần trong xã hội, hơn thế nữa họ là những người thừa hưởng truyền thống kỳ thị người phụ nữ của Ấn Độ. Dù không nói ra thì những thành kiến về việc cho người nữ xuất gia vẫn luôn tồn tại trong giáo đoàn. Bằng chứng là sau khi Đức Phật nhập diệt trong lần kiết tập Kinh điển đầu tiên, Tôn giả Ca Diếp liền kết tội Ananda phạm năm tội Đột kiết la. Trong đó, tội thứ năm là xin cho nữ giới xuất gia. Do vậy, với cái nhìn sâu xa, Đức Thế Tôn đã để thời gian là cán cân cho sự thành tâm cầu đạo xuất gia của nữ giới. Đồng thời, sự khước từ của Đức Phật là để chờ đợi phản ứng và sự chấp nhận của phần đông trong xã hội và ngay trong giáo đoàn của Ngài chứ không phải như nhiều người nhận định Đức Phật bị miễn cưỡng phải cho nữ giới xuất gia, càng không có sự kì thị hay bất bình đẳng nào của Ngài dành cho nữ giới ở đây cả. Thật không đúng khi có ý kiến cho rằng Đức Phật phân biệt trọng Tăng hơn Ni, hay Đức Phật đối xử bất công, ép buộc Ni giới bắt phải tùy tùng Tăng qua việc Ngài chế định Bát kỉnh pháp.
Bát Kỉnh pháp là tiền đề hình thành Ni đoàn
Nhằm mục đích để thích nghi với điều kiện văn hóa và phản ứng của xã hội Ấn Độ cũng như trong Tăng đoàn thời bấy giờ, Đức Phật đã đặt ra điều kiện Ni đoàn phải thọ trì thêm Bát kỉnh pháp: “Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỳ kheo ni đối với một Tỳ kheo mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Tỳ kheo ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỳ kheo…” [11].
Mahāpajāpati Gotamī lãnh nạp Bát kỉnh pháp và được bà ví như tràng hoa quý báu, nguyện thọ trì trọn đời. Ni đoàn được hình thành từ đây, trách nhiệm tiếp dẫn hậu lai, phát triển Ni đoàn được giao phó cho bà. Chính bà là người đại diện thọ lãnh Bát kỉnh pháp, tiếng nói của bà có giá trị rất lớn trong Ni đoàn lúc này và không có luật lệ nào dành riêng cho Ni giới ngoài Bát kỉnh pháp. Đức Phật cũng đã khẳng định khả năng chứng các quả vị của người nữ ngang tầm với nam giới. Do vậy, khi tiếp nhận nữ giới vào Tăng chúng thì rõ ràng Ngài có cái nhìn thật đúng đắn.
Tầm quan trọng của Bát kỉnh pháp đối với Ni đoàn
Về mặt bình đẳng: Có thể khẳng định rằng Bát kỉnh pháp là điều kiện tiên quyết để Đức Phật chấp nhận cho nữ giới xuất gia. Không có Bát kỉnh pháp chắc chắn việc người nữ được xuất gia là không thể, cũng không có sự thành lập Ni đoàn, giáo đoàn của Đức Phật cũng không hội đủ bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di. Bát kỉnh pháp là phương tiện để Đức Phật đưa địa vị của người nữ cao hơn trong xã hội để họ có quyền thoát khỏi sự ràng buộc bất bình đẳng ở Ấn Độ bấy giờ. Việc chấp nhận điều kiện Bát kỉnh pháp giúp họ có một vị trí được xem trọng, hơn nữa là được tôn kính trong xã hội. Kinh Tiểu Duyên có ghi: “Này Bà-tất-tra! Ngươi nên biết hiện nay chúng đệ tử của ta, dòng dõi không đồng, xuất xứ khác nhau, xuất gia tu hành ở trong giáo pháp ta. Nếu có gặp ai hỏi: “Người thuộc dòng nào?” thì nên trả lời họ: ‘Tôi là Sa-môn, con dòng họ Thích” [12].
Vậy nên, chúng ta không thể đem giá trị xã hội ngày nay về bình đẳng mà lên tiếng phê phán Đức Phật không bình đẳng. Vì Ngài chính là người mở ra cuộc cách mạng cho người nữ thoát khỏi sự áp bức và kì thị, thế nên Ni giới chúng ta không có lý do gì lên tiếng cho rằng Bát kỉnh pháp không phải do Đức Phật tuyên thuyết hay lên tiếng đòi hủy bỏ Bát kỉnh pháp. Làm như thế thì không khác nào chúng ta phủ định những gì Đức Phật làm vì người nữ, tự chúng ta khiến mình thành kẻ vong ân với chính người đã mở ra lối đi mới cho chúng ta. Cả nam và nữ đều có khả năng thành tựu Chánh pháp nhưng không phải vì thế mà bỏ qua những khác biệt về thực tiễn, tâm lý và thể chất của mỗi giới.
Về quá trình tu chứng: Trong kinh A Tu La Pahàràda nói như sau: “Ví như, này Paharada, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng… Sát đế lỵ, Bà la môn, Phệ xá, Thủ đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong pháp và luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích tử” [13]. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Đức Phật cũng có dạy: “Lại nữa, bậc đệ tử hiền Thánh, dứt hết hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí huệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự vui thích, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh, như thật mà biết, giống như cây kia trổ hoa đầy đủ…các Tỳ kheo, hãy học điều này” [14].
Chúng ta không hề thấy nhắc đến người nữ nhưng bao hàm tất cả những ai xuất gia sống đời sống phạm hạnh thì trong đó có sự xuất hiện người nữ. Sau khi Mahà Pajàpatì Gotamì thọ lãnh Bát kỉnh pháp xuất gia và tiếp nhận giáo đoàn, bà đã chứng minh lời Phật dạy là người nữ cũng có thể chứng quả vị ngang hàng với người nam. Trong giáo đoàn của Đức Phật có đầy đủ các vị Trưởng lão, Trưởng lão Ni: “Trong các vị nữ đệ tử Tỳ kheo ni đã lâu ngày của Ta, tối thắng là Mahà Pajàpatì Gotamì” [15]. Hơn nữa, “khi Phật còn tại thế có không ít vị Tỳ kheo ni đã được hoàn toàn giải thoát, chứng quả A-la-hán” [16]. Trong Trưởng Lão Tăng Kệ có nhắc đến như sau: Đầu tiên là trưởng lão Mahapajapati và tiếp đó là các vị Tỳ kheo ni khác. Isidàsi đã diễn tả trạng thái vui sướng tột bậc của mình khi được xuất gia vào giới đoàn và chứng đắc A-la-hán như sau:
“Tôi đã giải thoát khỏi sống và chết,
Tôi đã cắt đứt sợi dây luân hồi” [17].
Đó là những minh chứng năng lực, trí tuệ, khả năng đạt ngộ và chứng quả Vô lậu của các vị Ni ưu tú. Ngày nay, Ni giới thực hành Bát kỉnh pháp cũng không hề mất đi quyền lợi về mặt tổ chức của Giáo hội và cũng không ảnh hưởng đến sự cung kính cúng dường của Phật tử đối với các vị Tỳ kheo ni. Bát kỉnh pháp giúp cho người nữ trừ diệt sự kiêu ngạo, cũng là hàng rào ngăn ngừa tham ái liên quan đến phạm hạnh của Tăng, Ni. Ni giới chúng ta luôn lấy Bát kỉnh pháp thực hành là trên hết.
Thay lời kết
Đức Phật đã thiết lập tôn giáo trên nền tảng giáo lý bình đẳng và vị tha, xóa bỏ sự trọng nam khinh nữ trong truyền thống Ấn Độ cổ đại. Việc Ngài chấp nhận cho người nữ xuất gia và đưa ra điều kiện là thọ trì Bát kỉnh pháp suốt đời không có gì là bất bình đẳng. Ngài đã khởi xướng ra cuộc cách mạng giúp cho người nữ có vị trí mà họ đáng được có. Ngài là người đầu tiên trong lịch sử tôn giáo nâng giá trị của nữ lên tầm mức cao nhất trong xã hội. Nhờ sự thọ lãnh Bát kỉnh pháp mà Ni đoàn chúng ta hình thành và tồn tại đến hiện nay.
Trong tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, có Phân ban Ni giới, các vị Tỳ- kheo Ni, Thức-xoa-ma-na hay Sa-di-ni đều được tôn trọng, cho thấy sự bình đẳng trong Phật giáo luôn hiện hữu. Do đó, chúng ta phải sống và tu học sao cho thích đáng với lý tưởng cao cả này và hành trì đúng với bổn phận của người xuất trần thượng sĩ trong cương yếu của người xuất gia.
Chú thích:
[1] Viên Trí (2009), Ấn Độ Phật giáo sử luận, Nxb Phương Đông, tr.133-134.
[2] Thích Giác Dũng (2004), Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, tr.34.
[3] Thích Chơn Thiện (2000), Tăng già thời Đức Phật, Nxb Tôn Giáo, tr.288.
[4] Hán Dịch: Tam Tạng Tăng-Già-Đề-Bà, Việt Dịch: Tuệ Sỹ (2008), Kinh Trung A-Hàm Tập 1, 116. Kinh Cù-Đàm-Di, Tôn Giáo, tr.853.
[5] Thích Minh Châu (dịch) (2005), Kinh Tăng Chi Bộ 3, Chương VIII Tám Pháp VI, Phẩm Gotamì, Nxb Tôn Giáo, tr.651.
[6] Thích Minh Châu (dịch) (2005), Kinh Tăng Chi Bộ 3, Chương VIII Tám Pháp VI, Phẩm Gotamì, Nxb Tôn Giáo, tr.654.
[7] Hán Dịch: Tam Tạng Tăng-Già-Đề-Bà, Việt Dịch: Tuệ Sỹ, Kinh Trung A-Hàm Tập 2, 180. Kinh Cù – Đàm – Di, Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, tr.259.
[8] Thích Minh Châu (dịch) (2005), Kinh Tăng Chi Bộ 3, Chương VIII Tám Pháp VI, Phẩm Gotamì, Nxb Tôn Giáo, tr.659.
[9] Thích Hạnh Bình (2014), Nghiên cứu về năm việc của Đại Thiên, Nxb Phương Đông, tr.85.
[10] Trích từ ý giảng giáo thọ Sư.
[11] Thích Minh Châu (dịch) (2005), Kinh Tăng Chi Bộ 3, Chương VIII Tám Pháp VI, Phẩm Gotamì, Nxb Tôn Giáo, tr.654-655.
[12] Thích Hạnh Bình (2018), Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường Hàm, kinh Tiểu Duyên, Nxb Hồng Đức, tr.113.
[13] Thích Minh Châu (1988), Kinh Tăng Chi II, Kinh A Tu La Pahàràda, phẩm Lớn, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.5.
[14] Thích Thanh Từ (dịch) (2005), Kinh Tăng Nhất A-Hàm, Tập II, XXXIX. Phẩm Đẳng Pháp, Tôn Giáo, tr.559.
[15] Thích Minh Châu (dịch) (1988), Kinh Bộ Tăng Chi, Phẩm người Tối Thắng, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.34.
[16] 雜阿含經卷34: 「婆蹉白佛:「且置比丘,有一比丘尼於此法、律盡諸有漏,乃至不受後有不?」
[17] Tăng chi bộ III, phẩm Gotami, bài 11, Trưởng lão Tăng kệ, tr.39.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thực hành thiền Phật giáo
Kiến thức 11:40 04/11/2024Mục đích tối hậu của thiền là giúp tâm ta định và sáng, có thể thấy biết đúng như thật về thật tính của vạn pháp, bản chất của mọi sự vật hiện tượng, cả những hiện tượng vi tế nhất.
“Phàm làm việc gì, trước phải xét kết quả của nó về sau”
Kiến thức 10:00 04/11/2024Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa bãi, thì thế nào cũng gặt nhiều tai họa, gây tạo cho mình những điều phiền phức, có khi làm ung độc cả cuộc đời, cả sự sống. Chỉ có những người nông nỗi, liều lĩnh mới không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày.
Ý nghĩa của việc tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật
Kiến thức 08:54 04/11/2024Trong suốt cuộc đời hoằng pháp, đức Phật không hề viết sách. Tất cả kim ngôn hay lời dạy của Ngài được truyền thừa lại nhờ vào truyền thống tụng đọc thuộc lòng, của các vị đệ tử của Ngài truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Duyên khởi là cốt tủy, là hạt nhân của mọi triết lý Phật giáo
Kiến thức 11:20 03/11/2024Các triết lý quan trọng của Phật giáo như Vô ngã, khổ, vô thường, tính không, nhân quả đều được đặt trên nền tảng cơ sở của duyên khởi.
Xem thêm