Thế nào là niệm Phật “nhất tâm bất loạn”?
Tổ Trần Nhân Tông nói: “Tịnh độ chính là lòng trong sạch. Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính sáng soi. Mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”.
Lòng trong sạch có thể hiểu là Giới. Tính sáng soi có thể hiểu là Tuệ.
Có Giới có Tuệ rồi, nhưng không thấy Tổ nói đến Định? Phải chăng pháp môn niệm Phật xem nhẹ việc Định?
Dù nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ, nhưng nếu “Thu nhiếp lục căn, tịnh niệm nối liền không dứt thì sẽ đắc Tam ma địa”. Tam ma địa cũng chính là Tam muội, cũng là chánh định.
Tịnh niệm nối liền không gián đoạn, nói như kinh A Di Đà là “Niệm Phật nhất tâm bất loạn từ một ngày cho đến bảy ngày thì quyết định vãng sinh”.
Nói đến chữ “nhất tâm bất loạn”thì quá khó với hàng sơ cơ. Còn nói lập trên tín, hạnh, nguyện thì mới thuộc về thái độ tiếp cận pháp môn niệm Phật.

Các Tổ xưa khi nhắc nhở người tu theo pháp môn niệm Phật rất rõ ràng, đó chính là “thu nhiếp lục căn” (Thu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc Tam ma địa, Tịnh độ hiện tiền…).
Bởi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) khi tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sẽ nảy sinh biết bao nhiêu so sánh, phân biệt, làm cho náo loạn thân tâm. Chính sự náo loạn này mà đánh mất Tam ma địa (Định). Thu nhiếp lục căn chính là quá trình chuyển lục tặc (sáu giặc) thành lục thông (sáu thông) hay nói như Duy thức luận chính là chuyển thức thành trí.
Mỗi ngày từ thân ngũ uẩn này (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) 6 giặc kia quậy phá, đấu tranh, gây xáo trộn thân tâm. Có khi mắt thắng thế (ưa nhìn ngắm), có khi tai thắng thế (ưa nghe âm thanh du dương), có khi hương thắng thế (ưa ngửi mùi thơm), có khi vị thắng thế (ưa nếm vị ngon), có khi xúc thắng thế (ưa xúc chạm êm dịu)…
Những ưa thích kia sẽ nảy sinh so sánh phân biệt gây ra yêu ghét, khen chê, lấy bỏ… Tuy nhiên vì có thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) làm chủ, nên tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, tánh biết kiểm soát trật tự mà sáu căn kia phân phối và cùng nhau làm việc, và mỗi việc làm của mỗi căn được xúc tiến, thúc đẩy để sớm tạo thành một kết quả của pháp tục đế (phương tiện sống).
Sống với hiện tại chính là các căn sống ngay nơi cảnh ấy. Rõ biết mỗi căn đang sống trong mỗi cảnh mà không khởi so sánh phân biệt chính là “an trú trong hiện tại”, cũng chính là “nhất tâm bất loạn”.
Tại sao phải chuyển lục tặc thành lục thông và chuyển thức thành trí. Vì thức (trong đệ lục thức) chỉ là cái hiểu biết riêng do kiến thức được học, do kinh nghiệm truyền lại, chứ chưa phải trí là cái tánh biết vượt ra khỏi so sánh phân biệt.
“Lục nhập” (trong 12 nhân duyên) cũng chính là 5 căn bắt cảnh ngoại trong hiện tại và ý căn bắt cảnh nội (có thể là quá khứ, hiện tại, tương lai).
Vì vậy, cũng ngay nơi các căn này, nếu tiếp xúc nó bằng hiểu biết, kiến thức, kinh nghiệm thì sẽ rơi vào hồi tưởng (quá khứ), vọng tưởng (tương lai) và liên tưởng (hiện tại - so sánh phân biệt). Nếu để kiến thức, kinh nghiệm, sự hiểu biết đi trước thì khó thúc đẩy khả năng quán sát vi diệu của thức (trí).
Hơn nữa nếu để kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm đi trước thì rất dễ rơi vào các chướng ngại do đa văn tạo ra. Cái chướng lớn nhất là “thân kiến”, khởi lên ngã mạn về cái tôi và cái của tôi.
Ngã mạn thường phát sinh do so sánh hơn thua, giỏi thì muốn được người khác khen, dở thì tìm cách khiến người ta sợ… Cho nên cả tự tôn và tự ti đều hiện tướng của ngã mạn.
Cái hiểu biết của con người khi tiếp xúc trần cảnh tự nó sẽ xếp hạng mình là cao hơn, đẹp hơn, thông minh hơn, giàu có hơn và ngược lại. Theo dõi nó, quán sát nó thì sẽ thấy tập tính, thói quen của nó…
Chúng ta “có mặt” ở trên cõi đời này làm gì? Trả lời được câu hỏi ấy thì mới không day dứt với câu “Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời” (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Thực tế chúng ta vẫn đang sống với “cái mặt” này là chính. Mất mặt thì sống chui, sống lủi, chẳng dám nhìn ai… Vì “mặt này” vốn là nơi hành hoạt của mắt, tai, mũi, lưỡi, ý và một phần của thân. Thu nhiếp được “cái mặt” này, là ngăn ngừa được các sở hữu bất thiện biến hành (gồm si, vô tàm, vô quý, phóng dật) phát sinh, giảm sự ngăn che của vô minh.
Tại sao khi niệm Phật cần thâu nhiếp lục căn? Vì quá trình quán sát, thâu nhiếp cũng không ra ngoài niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Vì quán sát lục căn cũng có nghĩa hiểu rõ về thân ngũ uẩn. Hiểu rõ về thân ngũ uẩn thì hiểu rõ 28 sắc (4 sắc tứ đại, 5 sắc thần kinh, 4 sắc cảnh giới, 2 sắc tính, 2 sắc biểu tri, 3 sắc đặc biệt, 4 sắc tướng…).
Và bởi khi thân hoại mạng chung 5 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) trả về với các cảnh sắc kia, chỉ có thức quả tái sinh (gồm 32 thức quả - 23 tâm quả dục giới, 5 tâm quả sắc giới và 4 tâm quả vô sắc giới).
Tại sao khi niệm Phật người ta thường sử dụng xâu chuỗi 108 hạt để làm pháp phương tiện chú niệm và chuyển niệm. Vì khi niệm Phật không thâu nhiếp lục căn thì tịnh niệm không nối liền, và vì thế khó vào cảnh Tam ma địa (nhất tâm bất loạn).
Bởi niệm mà mong muốn chứng này, đắc kia, sinh bên này sang bên kia thì rơi vào Ái. Ái bao gồm dục ái (si), hữu ái (tham), phi hữu ái (sân) thúc đẩy. Mà Ái cũng do 6 căn xúc với 6 cảnh mà thành ra yêu ghét, khen chê, lấy bỏ… 6 giặc còn đang làm loạn thì sao có thể nhất tâm bất loạn.
6 căn + 6 cảnh = 12 xứ, 12 xứ nhân với 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) = 36, 36 nhân với Tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) thành 108. Đây cũng là 108 phiền não trần lao, dứt một chuỗi là dứt 108 phiền não do Ái đưa đến.
Vì vậy khi nói về pháp môn niệm Phật mà chỉ nhấn mạnh đến tín, hạnh, nguyện mà không nói việc thu nhiếp lục căn thì cũng chẳng thể hiểu được “nhất tâm bất loạn” là gì.
Một khi không hiểu thì dù có niệm một ngày một muôn thì cũng chưa ra khỏi ái, thủ, hữu…
Cho nên niệm Phật “nhất tâm bất loạn”, chính là hiểu được 12 xứ (6 căn, 6 cảnh) hiểu được 18 giới (6 căn, 6 thức, 6 cảnh). Hiểu được 18 giới thì bao trùm cả giới - định - tuệ, khi ấy “an trú” và “vãng sinh” không khác, chẳng phải nhọc lòng tìm cầu ở đâu…
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
12 lời nguyện của Phật Dược Sư
Phật giáo thường thứcPhật Dược Sư vì chúng sanh hiện đời cầu an lạc, còn Phật A Di Đà lại tiếp bước chúng sanh vãng sanh về Cực Lạc. Tuy nhiên dù là vãng sanh Tây phương hay tu tập pháp môn gì, đều phải có thân tâm mạnh khỏe mới có thể thực hành tu trì Phật pháp.
Khi nào lòng từ thật sự là vô lượng tâm?
Phật giáo thường thứcòng từ là sự trao ra không trông đợi hồi đáp. Còn trông đợi phản ứng của cuộc đời thì lòng từ của ta chưa thật sự là vô lượng tâm.
Hạnh nguyện và năng lực gia trì của đức Phật Dược Sư
Phật giáo thường thứcHôm nay, nhân ngày kỷ niệm vía đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chúng tôi xin nói về mười hai hạnh nguyện của Ngài. Đức Phật Dược Sư còn có tên là Đại Y Vương Phật, Ngài là vị giáo chủ cõi Tịnh Lưu Ly ở phương Đông.
Hồi hướng phước đến người chết có hiệu quả như thế nào?
Phật giáo thường thứcHỏi: Sayadaw nghĩ sao về việc hồi hướng phước đến những người đã chết? Việc hồi hướng ấy có hiệu quả như thế nào?
Xem thêm














