Thực hành cúng tế theo lời Phật dạy
Như nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Việt chúng ta có tập tục cúng tế trời đất, thần thánh hay hiến cúng vong linh cha mẹ, ông bà tổ tiên diễn ra khá phổ biến trong mỗi vùng miền, mỗi địa phương, mỗi dòng tộc và trong mỗi gia đình. Về phương diện đạo lý thì đây hẳn là một nghĩa cử hay, mang ý nghĩa tốt đẹp, thể hiện đức khiêm hạ và lòng biết ơn nhớ ơn đối với muôn vàn ân đức giúp che chắn và đỡ đần cho con người tồn tại trên cuộc đời. Rõ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” luôn luôn là nép đẹp văn hóa của đời sống nhân loại.
Nhận xét về cách thái đạo đức của loài người, Đức Phật đánh giá cao lối sống biết ơn và nhớ ơn, xem đây là loại châu báu ở đời (1):
“Người không phải chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Đối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị kẻ không chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc chân nhân, này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Đối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị bậc chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn” (2).
Đạo Phật tán dương đạo lý tri ân và báo ân thể hiện qua việc thờ cúng tế tự mà con người thực hiện trong cuộc đời. Kinh Tăng chi bộ ghi lời Đức Phật tán thán việc làm công đức của những người gia chủ sáng suốt, biết dùng tài sản thâu hoạch được do nỗ lực làm ăn đúng pháp tổ chức năm loại lễ hiến cúng: hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho các vong linh quá khứ, hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên (3).
Nhìn chung, đạo Phật hoàn toàn tán đồng và đánh giá cao ý thức cúng tế của con người. Tuy nhiên, loại cúng tế nào đạo Phật tán thành và hình thức cúng tế nào đạo Phật không chấp nhận, vấn đề này cần được xem xét kỹ trên cơ sở những phân tích của Đức Phật.
Trước hết, chúng ta xem qua quan điểm của Đức Phật về các loại hình tế đàn. Có vị Bà-la-môn tên Ujjaya đến hỏi Đức Phật:
- Có phải Tôn giả Gotama không tán thán tế đàn?
- Này Bà-la-môn, Ta không tán thán tất cả loại tế đàn. Nhưng này Bà-la-môn, Ta không phải không tán thán tất cả loại tế đàn. Trong loại tế đàn nào, này Bà-la-môn, trâu bò bị giết, dê cừu bị giết, gà heo bị giết, các loài sinh vật khác đi đến bị giết hại, loại tế đàn ấy, này Bà-la-môn, liên hệ đến sát sanh; Ta không tán thán loại tế đàn ấy. Vì cớ sao? Tế đàn có sát sanh như vậy, này Bà-la-môn, các A-la- hán và những ai đã đi trên con đường hướng đến A-la- hán không có đi đến.
Tại tế đàn nào, này Bà-la-môn, trong ấy không có trâu bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gia cầm và heo bị giết, không có các sinh vật khác bị giết, này Bà-la- môn, Ta tán thán tế đàn không có sát sanh như vậy, tức là bố thí thường làm từ lâu, tế đàn cầu hạnh phúc cho gia đình. Vì cớ sao? Tế đàn không có sát sanh như vậy, này Bà-la-môn, các A-la-hán và những ai đã đi trên con đường hướng đến A-la-hán có đi đến.
Lễ tế ngựa, tế người,
Lễ uống nước thắng trận,
Lễ ném cầu may rủi,
Lễ rút lui khóa cửa,
Lễ ấy nhiều sát sanh,
Không đem lại quả lớn.
Chỗ nào giết dê cừu,
Bò và sinh vật khác,
Các bậc theo Chánh đạo,
Các bậc Đại ẩn sĩ,
Tại tế đàn như vậy,
Họ không có đi tới.
Tế đàn không sát sanh,
Thường cầu phước gia đình,
Không giết dê, cừu, bò,
Không giết sinh vật khác,
Các bậc theo Chánh đạo,
Các bậc Đại ẩn sĩ,
Tại tế đàn như vậy,
Họ đến tế đàn ấy.
Lễ ấy bậc Trí làm,
Tế đàn ấy quả lớn,
Tế đàn vậy tốt lành,
Không đem đến ác hại,
Tế đàn càng to lớn,
Chư Thiên càng hoan hỷ (4).
Như vậy, Đức Phật tán thành việc cúng tế theo nghi thức đơn giản, tuyệt đối không sát hại các sinh vật, không cần đến các hình thức cầu kỳ tốn kém, chỉ đơn thuần giữ một tâm thức thanh tịnh ngưỡng vọng, kinh Kùtadanta (5) nói rõ chỉ cần ít dầu, sanh tô, thục tô và đường miếng dùng làm vật cúng tế. Trái lại, Phật không chấp nhận hình thức cúng tế phức tạp, theo đó nhiều loại sinh vật bị giết hại làm vật hiến tế, cỏ cây bị chặt phá làm giàn tế lễ, nhiều người phục dịch phải làm việc cực nhọc với tâm lý lo sợ than khóc (6).

Đức Phật không tán thành loại cúng tế sát hại các sinh vật vì đó là một việc làm mê lầm, một loại ác nghiệp, không những mang lại phiền toái khổ đau cho nhiều người và nhiều loại sinh vật ngay trong hiện tại, mà còn đưa đến quả báo khổ đau trong tương lai. Bài kinh sau đây nêu rõ những phân tích của bậc Giác ngộ phê phán về phương pháp tìm kiếm công đức sai trái và quả báo khổ đau của loại hình cúng tế mê lầm này:
“Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, tại khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một tế đàn lớn đang được thiết lập cho Bà-la-môn Uggatasarìra, năm trăm con bò đực được dắt đến trụ tế đàn, năm trăm con nghé đực được dắt đến trụ tế đàn, năm trăm con nghé cái được dắt đến trụ tế đàn, năm trăm con dê được dắt đến trụ tế đàn, và năm trăm con cừu được dắt đến trụ tế đàn. Rồi Bà-la-môn Uggatasarìra đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Uggatasarìra thưa với Thế Tôn:
- Tôi được nghe như sau, thưa Tôn giả Gotama: “Nhen nhúm ngọn lửa và dựng lên trụ tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn”.
- Này Bà-la-môn, Ta cũng có nghe: “Nhen nhúm ngọn lửa và dựng lên trụ tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn”...
- Thưa Tôn giả Gotama, con muốn nhen nhúm ngọn lửa, con muốn dựng trụ tế đàn. Thưa Tôn giả Gotama, Tôn giả Gotama hãy giáo giới cho con; Tôn giả Gotama hãy thuyết dạy cho con, để con được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
- Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi tế lễ đàn, dựng lên ba cây kiếm bất thiện đưa đến khổ sanh, khổ dị thục. Thế nào là ba?
Thân kiếm, ngữ kiếm, ý kiếm.
Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, khởi lên ý nghĩ: “Chừng ấy con bò đực cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con nghé đực cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con nghé cái cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con dê cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con cừu cần phải giết cho lễ tế đàn”. Vị ấy nghĩ rằng: “Tôi làm công đức”, lại làm bất thiện; nghĩ rằng: “Tôi tìm con đường đưa đến cõi lành”, lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên cây kiếm thứ nhất, bất thiện, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục.
Lại nữa, này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, nói như sau: “Hãy giết chừng ấy con bò đực cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con nghé đực cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con nghé cái cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con dê cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con cừu cho lễ tế đàn.”. Vị ấy nghĩ rằng: “Tôi làm công đức”, lại làm phi công đức; nghĩ rằng: “Tôi làm thiện”, lại làm bất thiện; nghĩ rằng: “Tôi tìm con đường đưa đến cõi lành”, lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên cây kiếm thứ hai, bất thiện, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục.
Lại nữa, này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, tự mình bắt đầu khởi sự công việc: “Hãy giết các con bò đực cho lễ tế đàn”; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: “Hãy giết các con nghé đực cho lễ tế đàn”; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: “Hãy giết các con nghé cái cho lễ tế đàn”; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: “Hãy giết các con dê cho lễ tế đàn”; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: “Hãy giết các con cừu cho lễ tế đàn”. Vị ấy nghĩ rằng: “Tôi làm công đức”, lại làm phi công đức; nghĩ rằng: “Tôi làm thiện”, lại làm bất thiện; nghĩ rằng: “Tôi tìm con đường đưa đến cõi lành”, lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên cây kiếm thứ ba, bất thiện, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục.
Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên ba cây kiếm này, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục...
Được nói như vậy, Bà-la-môn Uggatasarìra bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Và thưa Tôn giả Gotama, con sẽ thả năm trăm con bò đực và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con nghé đực và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con nghé cái và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con dê và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con cừu và cho chúng sống. Hãy để chúng ăn cỏ xanh; hãy để chúng uống nước mát; hãy để gió thổi chúng mát” (7).
Như vậy, cứ theo lời Phật dạy thì việc cúng tế đi đôi với sát sanh là một việc làm sai lầm, tạo nên nhiều ác nghiệp, đưa đến quả báo khổ đau. Tỏ lòng tri ân đời đất, thần thánh, nhân danh báo hiếu báo ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên hay cầu phúc lạc cho mình và cho gia đình mình mà đang tâm giết hại chúng sinh để tế tự thì phúc đức đâu chẳng thấy, trái lại chỉ đưa đến nhiều tổn đức, mang lại nhiều khổ quả!
Đáng chú ý rằng theo quan niệm của đạo Phật về nghiệp (kamma) và nghiệp quả (vipaka) thì con người không thể viện dẫn lý do này hay lý do khác để chạy chữa cho hành vi sai lầm hay ác nghiệp của mình. Kinh Dhànanjàni thuộc tuyển tập Trung bộ nói rằng một người làm ác nghiệp vì cha mẹ, vì vợ con, vì tổ tiên, vì chư Thiên hay vì vua chúa không tránh khỏi bị đọa vào địa ngục và người ấy cũng không thể viện dẫn lý do vì người này hay người khác mà thoát khỏi quả báo ác nghiệp của mình. Kinh Thiên sứ ghi lời thẩm vấn khiển trách của vị vua Yama (Diêm vương) đối với một kẻ làm ác nghiệp bị rơi vào cảnh u đồ trước khi kẻ ấy phải nếm chịu nhiều cực hình thống khổ khốc liệt ở cõi địa ngục:
“Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người kia (tội nhân): “Này người kia, ngươi có thấy giữa loài Người, các vua chúa sau khi bắt được tên trộm cướp có phạm tội, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy... họ lấy gươm chặt đầu”. Người ấy nói: “Thưa Ngài, có thấy”. Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: “Này người kia, tuy ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng ngươi không có nghĩ: “Thật sự những ai làm các ác nghiệp, họ phải chịu những hình phạt sai khác, ngay trong hiện tại như vậy, huống nữa là về đời sau! Ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu, ý”. Người ấy đáp: “Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài”.
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với nó: “Này người kia, nếu vì phóng dật nên ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn họ sẽ làm cho ngươi, này người kia, tùy theo sự phóng dật của ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà- la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi làm, chính ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy” (8).
Nhìn chung, theo sự phân tích và khuyên dạy của Đức Phật thì con người không nên làm các việc mê lầm, không nên tạo các ác nghiệp, dù đó là những việc làm tỏ rõ lòng biết ơn và nhớ ơn đối với muôn vàn ân đức giữa cuộc đời. Cụ thể là con người không nên thực hiện các hình thức cúng tế tốn kém phức tạp, gây nên sự chết chóc cho nhiều loại sinh vật vô tội; vì những việc cúng tế mang tính sát hại như vậy chẳng những vẽ nên một bức tranh phản cảm trong đời sống con người, mà còn tạo ra các ác nghiệp khó tránh khỏi quả báo khổ đau cho người thực hành sau khi thân hoại mạng chung.
Kinh Pháp cú nói rằng:
“Chúng sanh cầu an lạc.
Ai dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau không được lạc” (9).
Thay vào đó, Đức Phật khuyên mọi người nên thực thi các việc làm sáng suốt, hiền thiện, nên tiến hành các lễ hội cúng tế giản dị, ít tốn kém, không sát hại các sinh vật, gắn liền với bố thí cho người nghèo, cúng dường cho các bậc tu hành đức độ, những tế lễ chỉ dùng một ít thực phẩm chay tịnh làm vật hiến cúng (10), với tâm nguyện trong sáng hướng về trời đất, thánh thần, cha mẹ, ông bà tổ tiên để tỏ lòng tôn kính biết ơn và nhớ ơn.
Ngoài ra, bậc Giác ngộ còn gợi ý cho mọi người nhiều cách thức cúng tế khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, đưa đến nhiều kết quả hơn, nhiều lợi lạc hơn cho người thực hành (11):
- Tế đàn được thực hiện bằng cách bố thí rộng rãi và cúng dường cho các bậc tu hành đức độ.
- Tế đàn được thực hiện bằng cách góp phần xây dựng nơi chốn tu hành cho các bậc giới đức bốn phương.
- Tế đàn được thực hiện bằng cách quy y Tam bảo.
- Tế đàn được thực hiện bằng cách tuân giữ năm giới cấm: không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu.
- Tế đàn được thực hiện bằng cách thành tựu giới hạnh (sìla) hay tu tập Tăng thượng giới (Addhi-sìla).
- Tế đàn được thực hiện bằng cách thành tựu các thiền sắc giới (rùpa-jhàna) hay thực tập Tăng thượng tâm (Addhi-citta).
- Tế đàn được thực hiện bằng cách thành tựu trí tuệ (pannà) hay thực tập Tăng thượng trí tuệ (Addhi- pannà) hướng đến giải thoát (vimutti) và giải thoát tri kiến (vimutta-nàna).
Trong bài kinh nhấn mạnh về phương pháp kiến tạo công đức an lạc cho đời này và đời sau, đấng Giác ngộ dạy như vầy:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức, là nguồn nước thiện dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức, là nguồn nước thiện dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức, là nguồn nước thiện dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức, là nguồn nước thiện dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tám, là nguồn nước thiện dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc” (12).
Như vậy, người Phật tử chỉ cần giữ năm giới (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu) thôi thì đã thực thi việc cúng tế tốt đẹp, thi ân lớn cho cuộc đời, tạo nên nhiều phúc đức cho mình và cho những người thân yêu của mình, cùng lúc san sẻ nhiều phúc lạc cho vô số chúng sinh rồi vậy.
Chú thích:
1. Kinh Bà-la-môn Pingiyàni, Tăng chi bộ.
2. Kinh Đất, Tăng chi bộ.
3. Kinh Bốn nghiệp công đức, Kinh Trở thành giàu, Tăng chi bộ.
4. Kinh Ujjaya, Tăng chi bộ.
5. Kinh Kùtadanta, Trường bộ.
6. Kinh Kandaraka, Trung bộ.
7. Kinh Lửa, Tăng chi bộ.
8. Kinh Thiên sứ, Trung bộ.
9. Kinh Pháp cú, kệ số 131.
10. Kinh Kùtadanta, Trường bộ.
11. Kinh Kùtadanta, Trường bộ.
12. Kinh Nguồn nước công đức, Tăng chi bộ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Nhìn thấy tánh Phật Dược Sư trong mỗi người
Lời Phật dạyMỗi lần 30 tháng 9 âm lịch về, khi tiếng chuông chùa ngân vang trong không khí se lạnh cuối thu, tôi lại nhớ đến hình ảnh Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai - bậc Tối Thắng Y Vương với nguyện lực chữa lành không chỉ bệnh tật của thân, mà còn những đớn đau âm thầm của tâm.
Tâm đáng sợ hơn rắn độc
Lời Phật dạyHình ảnh “kẻ bưng bát mật, chân chạy nhảy, mắt chỉ chăm chăm nhìn mật” là ẩn dụ sâu sắc về sự mê đắm.
Pháp như giếng nước giữa đời
Lời Phật dạyGiáo pháp Đức Phật là con đường trung đạo, không thuộc về riêng ai, không có đặc quyền cho bất kỳ thầy hay cá nhân nào.
Tri ân người thầy trong tinh thần Tứ trọng ân
Lời Phật dạyTrong giáo lý nhà Phật, Tứ trọng ân là bốn ân lớn mà mỗi người cần ghi nhớ và đáp đền: ân cha mẹ, ân Tam bảo, ân quốc gia xã hội và ân chúng sinh.
Xem thêm














