Tiêu chuẩn và năng lực của người thầy và người học trò theo kinh điển Phật giáo
Nói đến giáo dục Phật giáo là nói đến một nền giáo dục kết hợp giữa truyền thống và hiện đại mang thông điệp của đức Phật đến với mọi người bằng con đường hòa bình, bằng con đường hạnh phúc khi chúng ta chấm dứt được nỗi khổi niềm đau.
Xuyên suốt 45 năm thuyết pháp độ sinh, đức Phật cũng chỉ tuyên bố: “Chư Tỷ khưu, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”[1]. Lời tuyên bố ấy đã làm kim chỉ nam cho hàng đệ tử xuất gia về sau thực hiện và được cũng cố thêm ý chí khi đức Phật từng khuyến khích: “Một người, này các Tỷ khưu, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán, Chính Đẳng Giác”[2]. Giáo dục Phật giáo là giáo dục bằng lòng từ, bằng tình thương là bản chất của nên giáo dục Phật giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam từ xưa đến nay.
Trong thời kỳ đầu, nền giáo dục Phật giáo đã trở thành những một phần của văn hóa Việt. Nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam cứ như vậy mà phát triển cho đến thời đại Lý – Trần thì trở thành tư tưởng chủ đạo, các nhà sư là người thầy, ngôi chùa trở thành ngôi trường, xuất phát từ ngôi chùa là những quân chủ, là trụ cột của quốc gia. Phật giáo đã tận dụng mọi cơ hội để truyền bá, tri thức với nền tảng rõ ràng: “Phật giáo là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy trí tuệ làm căn bản làm lẻ sống. Trí tuệ này thể hiện từ lúc Đạo Phật được dân tộc Việt đón nhận và định hướng cho con cháu đời sau sống hài hòa và chấp nhận các phong tục tập quán của người Việt cổ. Đó là văn hóa thờ cúng ông bà, hiếu thảo cha mẹ, hòa thuận anh em, bà con hàng xóm, nhất cận lân - nhì cận thân; bà con xa không bằng láng giềng gần. Sống yêu quê hương yêu đất nước, bảo vệ đất nước”[3]. Giáo dục Phật giáo ảnh hưởng lớn đến nền giáo dục của mọi thời đại.
Mối liên hệ giữa Thầy và Trò, Trò và Thầy trong giáo dục Phật giáo
Có được nền tàng như vậy, Phật giáo ảnh hưởng cho đến ngày nay, dù có những bước thăng trầm theo chiều dài của lịch sử dân tộc, nhưng đã mang đầy đủ trong mình từ truyền thống đến hiện đại, chỉ cần xây dựng nội dung cung cấp cho người học, xây dựng đội ngũ nhà giáo đủ phẩm chất và năng lực, tổ chức hệ thống giáo dục học đường tốt và kết hợp với giáo dục truyền thống thì có khả dĩ nâng cao vị thế của nền giáo dục Phật giáo ở tại Việt nam một cách xứng đang và đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Căn cứ trên tinh thần luôn Phật giáo luôn thay đổi để phù hợp với thời đại: “ứng dụng trên nguyên tắc Khế cơ, Khế lý và Khế thời”[4], dựa trên nên tảng đó chúng con chọn đề tài: “Xây dựng một nền giáo dục Phật giáo Việt Nam phù hợp với thời đại” để làm tiểu luận của bộ môn: “Giáo dục Phật giáo truyền thống và hiện đại” với mong muốn có được kết quả cao, chúng con lựa chọn phương pháp khảo cứu văn bản, phương lịch sử, phương pháp quán sát và sử dụng phương pháp liên ngành để thực hiện bài tiểu luận này.
Xây dựng năng lực thực sự cho người dạy Phật học
Làm cái gì cũng phải có mục tiêu rõ ràng mới có thể đi đến mục đích, giáo dục Phật giáo cũng vậy, nếu muốn có được kết quả như mong muốn thì phải xây dựng mục tiêu đào tạo cụ thể mà người học có thể đạt tới. Nói cách khác là sau khi được học, người học hoàn toàn có đủ kiến thức để đáp ứng mục tiêu đề ra của chuyên môn đào tạo, nhưng vẫn không xa rời mục tiêu chung của Phật giáo là tự lợi và lợi tha.
Căn cứ trên lời dạy của đức Phật, thì ngài là một tấm gương cho các vị xuất gia noi theo: “Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”[5].
Sau khi hoàn thiện tự thân đức Phật lại trình bày phương pháp giảng dạy của ngài: “Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”[6].
Cho nên người thầy ngày nay cũng phải giữ đúng tinh thần hoằng truyền chánh pháp của đức Phật qua việc giảng dạy: “Các vị Tỷ khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh”[7]. Khi có được các bậc thầy chuyên sâu, đủ về năng lực, phương pháp truyền dạy phù hợp, nắm được căn cơ của đối tượng học, thì hoàn toàn có thể giáo hóa đạt kết quả như mong muốn: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”[8].
Như vậy, giáo dục của Phật giáo có đầy đủ trên năm phương diện gồm: (Người thầy chuẩn mực toàn diện, nội dung giảng dạy rõ ràng, phương pháp truyền đạt hiệu quả tối ưu, học trò tin tưởng, thông minh và tinh thân cầu học, kết quả ngay trong hiện tại), so sánh với khẩu hiệu giáo dục toàn diện của thời hiện đại hôm nay, vẫn con kém xa những điều đức Phật dạy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm.
Năng lực của người dạy ở đây là hoàn toàn được hạnh phúc sau khi trải qua một quá trình học tập và nỗ lực rèn luyện tự thân đạt được trình độ tuyệt đối hạnh phúc hay cũng gọi là giác ngộ giải thoát hơn toàn. Khi đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thì có khả năng trở thành người thầy, tuy nhiên để trở thành người thầy tuyệt đối, phải có ba khả năng giảng dạy, đó là giáo hóa thần thông, giảng dạy qua lời và giảng dạy qua thân hay cũng có thể nói là thân giáo, ý giáo khẩu giáo.
Trong ba phương pháp trên, Đức Phật đề cao thần thông giáo: “Bắc tạng nhìn Thế Tôn như một vị vua thầy thuốc, xem bệnh chúng sanh và cho thuốc. Ðấy cũng chỉ là tinh thần chỉ đường. Ở Nikàya và A hàm, Thế Tôn đề cao phương pháp giáo hóa thần thông, qua thân giáo và khẩu giáo, bằng quan sát và phân tích thực tế. Mục đích việc giảng dạy của Ngài là giúp người nghe tự mình nhận ra con đường và tự mình thực hiện con đường”[9]. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta phải nghiên cứu lời dạy của đức Phật trong hệ thống Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo nói như thế nào: “Tỷ khưu nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm và nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác: Như vậy là ý của Ngươi, thế này là ý của Ngươi, như vậy là tâm của Ngươi…thế nào là giáo hóa thần thông? Ở đời có Tỷ khưu giáo hóa như sau: Hãy suy tư như thế này, chớ có suy tư như thế kia; hãy tác ý như thế này, chớ có tác ý như thế kia; hãy trừ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú điều kia”[10]. Người thầy muốn thành tựu giáo hóa thần thông chính là sự quán xét tâm niệm, nghiệp lực và nhân duyên của người học trò, xem thử có thể giảng dạy, tuyên thuyết như thế nào, giảng dạy cái gì để tương ưng với tâm niệm của người học để có được kết quả thành công cho người học, điều này đòi hỏi người thầy có năng lực rất lớn, ngoài trừ các bậc thánh ra thì người thầy bình thường không thể làm được, người thầy làm được trọn vẹn nhất về giáo hóa thần thông là đức Phật. Còn khẩu giáo và thân giáo thì ngày nay vẫn còn các bậc thầy làm tốt, tuy nhiên giáo hóa này thì năng lực có hạn và không thể độ hóa một cách trọn vẹn các tầng lớp tri thức cao trong xã hội cũng như giới chính trị cao cấp.
Tình thầy trò - tương lai Đạo Pháp
Từ kinh điển Nguyên thủy chuyển qua kinh điển Đại thừa thì triển khai sâu vào nguyên lý Phật chủng trí bằng phương tiện “Nhất thừa” là sự hóa độ chúng sinh thuần thục nơi “Nhất thiết chủng trí” để làm phương tiện khai thông lý đạo: “Tất cả chúng sanh đều là Phật”. Điều mà mười phương chư Phật đều làm là: ‘Xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến’.Điều ấy, đức Phật Thính Ca cũng không làm khác với chư Phật mười phương”[11]. Pháp Hoa là bộ kinh lớn, tư tưởng siêu việt của Đại thừa giáo, hàm dưỡng nhiều phương tiện cao siêu để hiển rõ thiệt tướng. Dưới tuệ giác của đức Phật thì chúng sanh có đầy đủ thể thức bình đẳng về Phật tánh, khai mở được Phật tánh thì khai thông được chân lý tuyết đối của Phật pháp. Chúng sanh bị chướng ngại bởi căn, trần mê hoặc nên Phật tánh không hiển lộ được, cần phải vượt qua chướng ngại ấy và người thầy ở đây phải thấy được, để quyết định dạy hay không dạy. Kinh Pháp Hoa đã dạy có đến năm ngàn vị không có duyên để nghe pháp hội Phương tiện của đức Phật dạy: “Chúng phàm phu chỉ sống với quyền lợi thực tế, không thể nào theo chân Phật tham dự pháp hội thứ hai, giống như năm ngàn Tỳ khưu tăng thượng mạn đã bỏ đi khi nghe đức Phật nói phẩm Phương tiện”[12].
Dựa trên những lời dạy này để có thể giải thích Phật pháp mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho mọi người, tại sao nhiều người không được thụ hưởng lợi ích của Phật pháp, dù sông trong thời có đức Phật ra đời. Cũng để lý giải tại sao sinh làm người là quý, nghe được Phật pháp lại quý hơn, nghe và thực hành giáo pháp lại càng quý hơn ...chứng nghiệm được giáo pháp mới là sự hạnh phúc trọn vẹn. Như vậy, thành tựu một người thầy đúng nghĩa của giáo pháp theo lời dạy của đức Phật sau khi Ngài diệt độ là khá cao bởi tính chất đặc trưng của Phật giáo nên phải thành tựu ba pháp nếu muốn xứng đáng là một người thầy: “muốn giảng kinh Pháp Hoa, sau khi Như Lai diệt độ, phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”[13]. Mỗi kinh có một yêu cầu riêng về người thầy, nhưng kết quả chung thì người thầy hay gọi là người thuyết pháp hay pháp sư đều phải có đạo đức thanh cao mới có thể thành tựu: “Năm phần pháp thân đều y cứ vào giới, ba môn vô lậu lấy giới làm đầu; không một đức Như Lai nào không đủ giới thể; không một vị Bồ tát nào không tu giới Ba la mật; không một kinh điển nào không đề cao giới pháp, không một bậc Thánh hiền nào không giữ giới hạnh trang nghiêm. Giống như đất, tất cả thiện pháp đều từ đó mà sinh trưởng; Giới như thành quách, hành giả dựa vào đó mà xa lìa được ma chướng”[14]. Đạo đức chính là nền tảng của mọi chất liệu thiện pháp, do nền tảng nên người thầy điều quan trọng nhất và đầu tiên là phải có giới hạnh, nhờ giới hạnh thanh tịnh tuy là căn bản, là nền tảng nhưng cũng chưa đủ để gọi là vị thầy giỏi, vị thầy giỏi phải có được giới và định. Định là điều kiện thứ hai mà vị thầy bắt buộc phải có, nhờ có định nên vị ấy mới chánh niệm, tỉnh giác để có thể nâng cao bản thân, quán xét thành tựu tâm niệm và nghiệp quả người học: “Định này hiện tại lạc và tương lai có quả dị thục lạc, trong mỗi người, trí khởi lên. Định này thuộc bậc Thánh, không thuộc vật chất, trong mỗi người, trí khởi lên. Định này không do người ác thực hiện, trong mỗi người, trí khởi lên. Định này an tịnh, thù diệu đem đến khinh an, đạt được nhất tâm, không phải là sự chế ngự gò ép thường xuyên, trong mỗi người, trí khởi lên:‘An tịnh, ta nhập định này. An tịnh, ta xuất khỏi định này’, trong mỗi người, trí khởi lên”[15]. Người thầy có vai trò quyết định đến chất lượng và thành tựu của người học, do đó thuần thục về giới và định là yêu cầu cần thiết và có tính ràng buộc về hàm dưỡng tư cách và năng lực của người thầy dạy đạo và cũng không thể dừng lại ở đó, người thầy tiếp tục hoàn thiện bản thân qua giá trị tuệ học: “Suy nghĩ đúng theo sự thật của các pháp dẫn đến cái thấy biết với trí tuệ rằng: Do Sinh không có mặt nên Già, Chết không có mặt. Do Sinh diệt, nên Già Chết diệt và như thế đối với Ta cái thấy biết với trí tuệ về Sanh, Hữu, Thủ, Ái, Thọ, Xúc, Lục nhập, Danh sắc, Thức, Hành, Vô minh sinh khởi. Như vậy sự thật là: “do Vô minh diệt nên Hành diệt, do Hành diệt nên Thức diệt,... Như vậy là sự diệt tận của hết thảy khổ đau”[16]. Trí tuệ giải thoát quá tuệ quán, con đường diệt tận khổ đau, tuy là được giải thoát, sẽ trở thành người thầy mô phạm, nhưng chưa phải là người thầy có năng lực thực sự đầy đủ phương tiện để hóa độ được viên mãn, khi đạt được tam minh, lục thông với sự giải thoát toàn phần: “Này các Tỷ khưu, Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong các hội chúng và chuyển bánh xe pháp”[17]. Thành tựu được như vậy, giá trị của người thầy được đặt vào địa vị tối thượng, năng lực người thầy có đủ phương tiện giáo hóa, xây dựng niềm tin mạnh mẽ cho người học, khi thực hiện chức năng giáo hóa không bị chướng ngại, bởi đầy đủ quán sát nhất duyên, quán sát nghiệp quả và đặc biệt là thẩm định được Ba la mật quá khứ của học trò. Cũng là có thể giúp học trò đạt được mục đích mà người học trò mong muốn và mục tiêu chung của giáo dục của Phật giáo và Phật giáo Việt Nam.
Những phẩm chất cần có của người học Phật
Học trò học Phật cũng tạm thời chia làm hai hạng: Hạng cao thượng xuất gia vì mục tiêu giác ngộ và giải thoát rồi mới hóa độ chúng sinh, hạng thứ hai là cư sĩ làm chuyển luân thánh vương vì muốn an lạc cho mình và an lạc cho mọi người. Người học trò phải chọn đúng người thầy, có được năng lực thực sự thì mới đạt được mục tiêu đích thực của người học Phật pháp:
“Lý tưởng xuất gia chân chính trong giáo đoàn Phật giáo là phải lấy động cơ và quyết tâm tìm cầu giải thoát làm nguyên tắc, mà điều này cũng chính do bản thân đức Phật đã vì động cơ thuần khiết ấy mà xuất gia nên về sau Phật cũng dùng động cơ ấy để khích lệ những người chân chính xuất gia”[18]. Tinh thần cầu học, lý tưởng cao thượng, mục đích rõ ràng là cơ sở để một người học Phật có thể bước vào của đạo môt cách chân chính, mong muốn thành tựu, Sa môn hạnh, có được nền chính kiến căn bản để biết ở đâu là tốt cho việc học đạo của mình, đây là bược căn bản đầu tiên của một vị học trò đi theo con đường cao thượng của học Phật:
“Tỳ khưu với lý tưởng xuất gia học đạo là thành đạt ý nghĩa của Sa môn, nên chọn trú xứ tu tập nào mà có thể thành đạt được lý tưởng đó, dù điều kiện vật chất khó khăn; trường họp vật chất khá tiện nghi thì ở trọn đời để tu tập. Ngược lại, tu học ở noi nào mà không thực hiện được lý tưởng giải thoát, thì dù có đầy đủ tiện nghi cũng bỏ đi, nói gì đến việc thiếu tiện nghi”[19]. Đây là những yếu tó cần thiết và ban đầu của một người học trò được bậc Đạo sư chỉ dạy vì lòng thưởng tưởng, cũng là yếu tố căn bản đưa đến kết quả của người học trò tu học theo Phật giáo để có kết quả đó là: “Chỗ ở thích hợp, tứ vật dụng dễ kiếm, có người thầy tốt hướng dẫn và có ý chí, nghị lực và tâm tu học mạnh mẽ”. Căn cứ trên thực tế của bốn phương diện này là những gì cần thiết cho một người học trò có thể thành tựu, nếu thiếu điều kiện tứ sự, người học trò khó mà duy trì tinh thần bền bỉ để có được kết quả, thiếu yếu tố này chỉ dành cho những bậc đại căn cơ, nếu thiếu yếu tố này mà thành tựu được thì đức Phật chắc không dạy con đường trung đạo:
“Có hai cực đoan mà người xuất gia không nên thực hành: Một là say đắm dục lạc đối với các dục vọng hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích. Hai là hành hạ tự thân, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Từ bỏ hai cực đoan này là con đường trung đạo, đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn”[20]. Khổ hạnh, thiếu thốn thuộc một cực đoan, mang lại đau khổ cho mình, cho người không đem lại lợi ích cho mình, cho người, khó đến với Thánh quả và một cực đoan nữa là quá đầy đủ trong cuộc sống, bị tham đắm, tâm ô nhiễm, khó từ bỏ, đánh mất mục tiêu của một người học Phật xa rời hạnh Thánh, không đến được kết quả, chỉ có trung đạo là sống trong biết đủ, xa lìa dục lạc, nhất tấm hướng thiện, khát ngưỡng chân chính, học tập đến nơi, đến chốn, tu tập quyết định, kết quả chắc chắn, đó là chính kiến, đưa đến thành tựu mục đích người học:
“Ở đây, này các Tỷ khưu, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sinh, không cho sinh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sinh được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sinh, nay cho sinh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sinh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; vị ấy tu tập thần túc thông câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tâm định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tư duy định tinh cần hành; tu tập tín căn, tu tập tấn căn, tu tập niệm căn, tu tập định căn, tu tập tuệ căn, tu tập tín lực, tu tập tấn lực, tu tập niệm lực, tu tập định lực, tu tập tuệ lực, tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi, tu tập chính tri kiến, tu tập chính tư duy, tu tập chính ngữ, tu tập chính nghiệp, tu tập chính mạng, tu tập chính tinh tấn, tu tập chính niệm, tu tập chính định. Này các Tỷ khưu, đây gọi là trung đạo lộ”[21]. Đây là cả một lộ trình tiếp theo sau khi thành tựu được bốn pháp cơ bản, chưa phải đến đây mà dừng lại được, người học trò cần phải tiếp tục thành tựu được mục đích cuối cùng thông qua việc học và tu.
Người học Phật học hay gọi là người học trò cũng phải thông qua một lộ trình đầy đủ trên ba phương diện: “Văn tư tu” hay nói cách khác là: “Giới, định, tuệ” chứ không phải cầu nguyện, không phải do lòng tin mà được, mà phải sự nỗ lực nghiên cứu, nỗ lực thực hiện lời đức Phật dạy mới có thể hiểu được lời đức Phật dạy: “Người hiểu được lời thuyết giảng về Pháp là Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người đem thực hành các pháp và tùy pháp được hiểu từ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời”[22]. Với khoảng thời gian học Phật học đủ về lượng và chất, người học trò sẽ tiến hành tu tập hay thực hành những gì đã học là cần thiết và đưa đến thực chứng, quá trình tu tập được diễn tả:
“Lộ trình tu chứng của Phật giáo gồm giới định tuệ giải thoát và giải thoát tri kiến. Nó là một loại năng lực tâm thức thanh tịnh sáng suốt, được khai mở và phát triển nhờ công phu tu tập giới đức và thiền định, có khả năng chứng nghiệm đầy đủ và sâu sắc mọi hình thái khổ đau của hiện hữu, hướng đến cắt đứt hoàn toàn mọi tham ái, chấp thủ và vô minh, thực chứng tâm giải thoát bất động (akuppa Cetovimuttị)”[23]. Phá sạch được vô minh, cắt đứt tái sinh, thực chứng được Niết bàn qua sự hoàn thiện giới, định, tuệ một cách hợp lý, theo lời dạy của đức Phật. Khi đạt được đích đến cuối cùng của người học Phật, thành tựu quả vị giác ngộ, giái thoát hoàn toàn: “Phật dạy các Tỳ khưu về giới, định, tuệ. Định đạt được bởi sự tu tập giới thì được quả báo lớn; tuệ đạt được bởi sự tu tập định thì được quả báo lớn; tu trí tâm tịnh, được giải thoát hoàn toàn, dứt hết ba thứ lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Sau khi đã giải thoát liền phát sinh trí về sự giải thoát, biết rằng sự sinh đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa”[24], thành tựu như vậy, là mục tiêu cuối cùng của người học Phật, thì vị ấy trở thành một vị thầy chân chính, để hướng dẫn và dạy dỗ những người học Phật trở thành người thầy cho Phật giáo tương lai, dòng giáo dục của Phật giáo ấy chảy mãi không ngừng cho đến hôm nay.
Vai trò của bậc thầy trong Phật giáo
Kết luận: Trải qua bao đời như vậy, ban đầu cũng chỉ là niềm tin, trải qua những thời pháp ngọt ngào như cam lồ của các bậc thầy giác ngộ, người học trò có đủ kiến thức căn bản để thực hiện mục tiêu giác ngộ giải thoát hóa độ chúng sinh.
Năng lực và phương pháp của người thầy có vai trò quyết định đến sự giác ngộ giải thoát của người học trò học Phật, với những phương tiện và năng lực đạt chuẩn của các bậc làm thầy (Đạo Sư) là giá trị tối ưu đưa đến thành tựu của người học Phật.
Với sự hướng dẫn của người thầy đủ năng lực, học trò thành tựu pháp học, thành tựu pháp hành và trở thành người thầy. Phật giáo là nền giáo dục kế tiếp trở thành một vòng của thế hệ, chưa bao giờ dứt tuyệt.
Ngày nay, năng lực và phương pháp của người thầy không còn được duy trì như trong các kinh điển dạy. Tuy nhiên, bối cảnh thời đại đã thay đổi, mục tiêu của người học Phật cũng dần thay đổi, nhưng truyền thống giáo dục Phật giáo còn duy trì dựa trên nền tảng kinh điển, mà vẫn không mấy kết quả bởi năng lực và phương pháp của giáo dục Phật giáo đã bị biến đổi theo thời gian.
Tài liệu tham khảo:
1. HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
2. HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 2, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
3. Thích Tâm Minh - Thích Tâm Chơn (Biên soạn 2014), Pháp Hành, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
4. Hán dịch: Phật Đà Da Xá Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Tuệ Sỹ (2007), Trường A Hàm, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
5. Thích Nguyên Hùng (Biện Soạn)(2014), Tổng quan bốn bộ A Hàm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
6. Nguyên bản: Pali - Việt dịch (2013): HT. Thích Minh Châu, Tương ưng bộ kinh, Tập II, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
7. HT. Thích Chơn Thiện (2009), Lý thuyết Nhân tính qua tạng Kinh Pàli, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
8. Thích Minh Châu dịch (2005), Tăng chi bộ kinh, Tập 3, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
9. Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ (2012), Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
10. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
11. HT. Thích Phước Sơn (2010) Một số vấn đề Giới Luật, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh,.
12. HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 2, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
13. HT. Thích Thiện Siêu (1999), Kinh Pháp Hoa giữa các kinh điển Đại thừa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.
14. HT. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
15. HT. Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
16. Thích Hạnh Bình (2013), Những vấn đề cốt lõi trong Trường bộ kinh, Nxb Tủ sách Tuệ Chủng, TP. Hồ Chí Minh.
17. HT. Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
18. HT. Thích Minh Châu dịch (2012), Trung bộ kinh, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
19. HT Thích Minh Châu dịch (1991), Trường bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
20. Ban Giáo dục Tăng ni TW (2012), Hội thảo Khoa học: Giáo dục Phật giáo - Định hướng & Phát triển, Bản bhất Phật giáo, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Chú thích:
[1] HT. Thích Minh Châu dịch (2012), Trung bộ kinh, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.185.
[2] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.46.
[3] Ban Giáo dục Tăng ni TW (2012), Hội thảo Khoa học: Giáo dục Phật giáo - Định hướng & Phát triển, Bản bhất Phật giáo, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, tr.57.
[4] Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, tr.111.
[5] HT. Thích Minh Châu dịch (2012), Trung bộ kinh, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.116.
[6] HT Thích Minh Châu dịch (1991), Trường bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.121.
[7] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.231.
[8] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1996, trang 374,375.
[9] Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, tr.88.
[10] Thích Hạnh Bình (2013), Những vấn đề cốt lõi trong Trường bộ kinh, Nxb Tủ sách Tuệ Chủng, TP. Hồ Chí Minh, tr.54.
[11] Thích Thiện Siêu (1999), Kinh Pháp Hoa giữa các kinh điển Đại thừa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh, tr.19.
[12] HT. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,tr.340.
[13] HT. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,tr.303.
[14] HT. Thích Phước Sơn (2010) Một số vấn đề Giới Luật, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, tr.16.
[15] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 2, Nxb Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh,tr.339.
[16] Thích Chơn Thiện (2009), Lý thuyết Nhân tính qua tạng Kinh Pàli, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, tr.53.
[17] HT. Thích Minh Châu dịch (2005), Tăng chi bộ kinh, Tập 3, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.223.
[18] Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ (2012), Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.339.
[19] Biên soạn Thích Nguyên Hùng (2014), Tổng quan bốn bộ A Hàm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.180.
[20] Nguyên bản: Pali - Việt dịch (2013): HT. Thích Minh Châu, Tương ưng bộ kinh, Tập II, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.375.
[21] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 1, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.545,546.
[22] HT. Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi bộ kinh, Tập 2, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.585.
[23] Thích Tâm Minh - Thích Tâm Chơn (Biên soạn 2014), Pháp Hành, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.81.
[24] Hán dịch: Phật Đà Da Xá Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Tuệ Sỹ (2007), Trường A Hàm, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr.68.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Kinh Phật nói ân nặng cha mẹ khó báo đáp
Kiến thức 09:36 23/11/2024Hiếu thuận không chỉ có một đời, duy chỉ có siêng năng thực hành bố thí giúp người, tu tạo nhiều công đức hồi hướng cho song thân, như thế cha mẹ mới hưởng được tư lương phước tuệ vĩnh hằng, như thế mới được xưng là đại hiếu của con cái!
Thân và tâm chính là cánh cửa để người học Phật bước vào chân lý
Kiến thức 17:05 22/11/2024Người học Phật phải lấy thân này làm nơi để thực hành giới, lấy tâm này làm nơi để thực tập định và tuệ. Khi thân và tâm được thanh lọc qua quá trình thực hành, thì người học Phật cũng từng bước đi đến sự giác ngộ và giải thoát.
Tu hành là gì? Như thế nào gọi là tu hành?
Kiến thức 10:00 22/11/2024Mọi người nhất định không nên hiểu lầm, hiểu sai đi ý nghĩa của hai chữ tu hành này. Như thế nào gọi là tu hành?
Bố thí sinh phiền não
Kiến thức 09:32 22/11/2024Thuở xưa, khi mà Ngài Xá-lợi-phất đang tu Bồ-tát đạo, công phu tu tập chưa được vững. Một hôm có người Bà-la-môn đến thử Ngài. Họ nói: - Người tu hạnh Bồ-tát cần phải bố thí. Tôi nay có chút việc đến xin Ngài giúp cho.
Xem thêm