Thứ năm, 07/12/2023, 16:06 PM

Tôn giả La Hầu La - Đệ nhất mật hạnh

Tôn giả La-hầu-la (Rahula) là vị Thánh Tăng, một trong 10 đệ tử lớn của Đức Phật, bậc Mật hạnh đệ nhất. Kinh tạng đề cập đến Tôn giả La-hầu-la không nhiều nhưng cũng đủ để nói lên mật hạnh của ngài.

Lần đầu tiên Đức Phật trở về thăm quê hương Ca-tỳ-la-vệ kể từ khi thành đạo là vào năm La-hầu-la lên bảy tuổi. Khi Đức Phật đến thăm hoàng cung, công chúa Da-du-đà-la đưa La-hầu-la đến gặp Ngài và dạy: “Này La-hầu-la, Ngài chính là cha của con. Con hãy đến xin Ngài ban cho con phần tài sản của con”.

Cậu bé La-hầu-la làm theo lời mẹ, đến đảnh lễ ra mắt Đức Phật. Nhưng khi đến gần Đức Phật, chiêm ngưỡng thân tướng trang nghiêm và dung mạo uy nghi của Ngài, La-hầu-la quên bẵng lời mẹ dặn. Cậu chắp tay cung kính và bạch với Đức Phật rằng: “Bạch Sa-môn, chỉ cái bóng của Ngài thôi cũng làm cho con mát mẻ an vui”. Thế rồi cậu bé cứ quấn quýt bên chân Đức Phật cho đến khi Ngài thọ trai xong và rời khỏi hoàng cung trở về nơi lưu trú trong ngự uyển.

La-hầu-la cũng đi theo Đức Phật về ngự uyển. Trên đường về, bất chợt La-hầu-la nhớ lạy lời mẹ dặn, cậu bèn bạch với Đức Phật: “Bạch Sa-môn, xin cho con phần tài sản của con ”. Về đến nơi, Đức Phật thầm nghĩ: “Tài sản trong thế gian chất chứa đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho con gia tài cao thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã đạt được dưới cội bồ-đề. Con sẽ trở thành chủ sở hữu của một gia tài siêu thế”. Ngài gọi Tôn giả Xá-lợi-phất làm lễ xuất gia cho La-hầu-la và lãnh trách nhiệm làm thầy giáo thọ dạy dỗ cậu.

Tôn giả La-hầu-la xuất gia với hoàn cảnh và thân phận đặc biệt, tuổi còn niên thiếu, là bậc vương tử, là con của Đức Phật (lúc Ngài chưa xuất gia), được bậc Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất trực tiếp dạy dỗ.

Lúc mới xuất gia, ở Trúc Lâm, Tôn giả La-hầu-la là chú tiểu thơ ngây, vị Sa-di có chút tinh nghịch, mắc lỗi nói dối. Đức Phật đã dùng hình ảnh chậu nước với một ít nước dơ, xứng đáng được đổ bỏ; chậu nước sau khi bị đổ bỏ, trống không chẳng lợi ích gì để giáo hóa La-hầu-la. “Cũng vậy, này Rahula, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm…”. Tiếp đến Đức Phật dùng hình ảnh chiếc gương soi dạy La-hầu-la tu tập phản tỉnh trước khi suy nghĩ, nói năng và hành động. Từ đó Tôn giả tinh cần hướng nội tu tập chuyển hóa ba nghiệp (Kinh Trung bộ, số 61, kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala).

Sự ra đời của La Hầu La - người con duy nhất của đức Phật khi chưa xuất gia

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Lúc Phật ở Kosambi, Ngài chế giới không cho Sa-di ngủ chung phòng với Tỷ-kheo, La-hầu-la liền ra nhà vệ sinh của Phật nằm ngủ. Đức Phật hỏi: “Này La-hầu-la, sao con nằm ở đây? Vì không có chỗ ở, bạch Thế Tôn, trước đây các Tỷ-kheo cho con ở chung, nay vì sợ phạm tội, không cho con chỗ ở. Nghĩ rằng, đây là một chỗ không va chạm một ai, nên con nằm ở đây”. Luôn nhận lỗi về mình, không muốn va chạm một ai, không chống đối một Tỷ-kheo nào, kham nhẫn với chướng ngại là hạnh thầm lặng, ẩn mật của La-hầu-la (Kinh Tiểu bộ, tập IV, Jataka, số 16. Chuyện con nai có ba cử chỉ).

Lúc Đức Phật ở tinh xá Kỳ Viên, Ngài dạy La-hầu-la tu tập pháp quán niệm hơi thở, quán niệm về ngũ đại, quán niệm về tứ vô lượng tâm, quán tứ niệm xứ. Khi quán về địa đại, Đức Phật dạy La-hầu-la hãy tu tập như đất, chấp nhận tất cả thuận nghịch ở đời. “Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập như đất. Này Rahula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rahula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rahula, hãy tu tập như đất” (Kinh Trung bộ, số 62, Đại kinh Giáo giới La-hầu-la).

Tôn giả La Hầu La - Sa di đầu tiên của đức Phật là ai?

Cũng tại Kỳ Viên, nhận thấy cơ duyên giác ngộ của La-hầu-la đã chín muồi, Đức Phật tiếp tục dạy về thiền quán vô thường, khổ, vô ngã giúp La-hầu-la đoạn tận tham ái, chứng quả A-la-hán” (Kinh Trung bộ, số 147, Tiểu kinh Giáo giới La-hầu-la). Ngoài mật hạnh, Tôn giả La-hầu-la còn được Đức Phật tán dương là vị ưa thích học tập tối thắng (Kinh Tăng chi bộ, chương I, phẩm Người tối thắng).

Mật hạnh của Tôn giả La-hầu-la là công hạnh hướng nội, chuyên tu giải thoát, nhẫn nại trước chướng duyên, không thể hiện mình, dùng im lặng hùng tráng để giáo hóa. Đây cũng là một trong những hạnh tu quan trọng, khó làm mà hậu thế cần học tập. 

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Cuộc đời Tôn giả Mahã Kassapa qua kinh tạng Nikãya

Nhân vật Phật giáo 09:00 11/10/2024

Từ khi chào đời cho đến lúc nhập diệt, Ngài luôn sống trong thanh tịnh, hoàn thành chí nguyện xuất gia cũng như lối sống phạm hạnh đầu đà của mình.

Tôn giả Ananda và 8 đặc ân khi làm thị giả của đức Phật

Nhân vật Phật giáo 07:35 31/05/2024

Sau khi nghe Đại đức Ānanda giải thích ý nghĩa của mỗi đặc ân, Đức Phật chấp thuận đủ tám đặc ân của Đại đức Ānanda. Bắt đầu từ thời gian ấy, Đại đức Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Đức Thế Tôn, cho đến lúc Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn.

Thời niên thiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên

Nhân vật Phật giáo 19:20 26/03/2024

Tôn giả Mục-kiền-liên, bậc Thánh đứng hàng thứ hai trong mười vị Đại đệ tử của đức Phật. Ngài được đức Thế Tôn khen ngợi là vị có thần thông đệ nhất và hiếu tâm lớn nhất trong hàng đệ tử xuất gia của Phật.

Thiền sư Khương Tăng Hội – Người khai sáng Thiền tông Việt Nam

Nhân vật Phật giáo 09:03 20/03/2024

Người khai sáng Thiền tông Việt Nam là Thiền sư Khương Tăng Hội – sơ Tổ của dòng phái Thiền Việt Nam, người đã có công góp phần xây dựng cơ sở nền móng hoạt động để Trung tâm Phật giáo thứ II ở vùng Đông Bắc Bộ phát triển từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XI.

Xem thêm