Tôn giả A Nậu Lâu Đà, vị đại đệ tử thứ tư của Đức Phật là ai
Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà là vị đại đệ tử thứ tư của Đức Phật, còn gọi là A Na Luật, một Thánh nhơn rất thâm hậu trong thiền pháp, nhất là ngài đã đắc “Thiên nhãn thông” siêu đẳng (Dibbacakkhu), nhờ thuần thục tuyệt diệu trong Chánh định, trước khi đạt đến cứu cánh giải thoát.
Như chúng ta đã biết : Đức Phật có năm thượng thủ đại đệ tử, sắp theo thứ tự là :
1- Đại Ca-diếp (Mahà Kassapa).
2- Xá-lợi-phất (Sàrìputta).
3- Đại Mục-kiền-liên (Mahà Moggallàna).
4- A-nậu-lâu-đà (Anuruddha), và
5- A-nan-đà (Ànanda).
Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà là vị đại đệ tử thứ tư của Đức Phật, còn gọi là A Na Luật, một Thánh nhơn rất thâm hậu trong thiền pháp, nhất là ngài đã đắc “Thiên nhãn thông” siêu đẳng (Dibbacakkhu), nhờ thuần thục tuyệt diệu trong Chánh định, trước khi đạt đến cứu cánh giải thoát.
Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà cũng là Sa-môn có đủ công phu tu luyện để dùng “Thiên nhãn” theo dõi “Tịnh quang” của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng toàn giác thanh thoát xả báo thân, an nghỉ Niết-bàn.
Lúc còn sanh tiền, Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà tuy là người ít nói, ít tiếp xúc với các hàng tứ chúng, nhưng ông lại là một Sa-môn dễ hòa hợp với chư huynh đệ nhất, ngay cả trong các trường hợp đang bế môn tu luyện ở những nơi thanh vắng. Đọc qua sử tích của Thánh Tăng, chúng ta không thể không chú ý đến đặc điểm này.
Trong vô lượng kiếp về trước, Ngài từng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, nhưng lúc cúng dường Ngài không biết vị đó là Bích Chi Phật. Nguyện lực của vị Bích Chi Phật đó là : bảy ngày mới xuống núi một lần, hóa duyên bảy nhà, nếu bảy nhà không có ai cúng dường, thì Ngài chẳng hóa duyên nữa mà trở về núi. Vốn bảy ngày vừa qua, Ngài chẳng khất thực được gì, mà lần này cũng như thế, do đó vị Bích Chi Phật lại phải ôm bát không trở về núi, vì đời sống của người dân lúc đó rất khó khăn khổ sở, đâu có thức ăn dư mà bố thí cho người xuất gia.
Ngài A Nậu Lâu Ðà lúc đó là người nông dân nghèo, mỗi ngày làm ngoài đồng rất vất vả mà ăn cơm rất đạm bạc. Buổi trưa hôm ấy, Ngài thấy vị Tỳ Kheo già chẳng khất thực được gì, bèn sinh tâm cảm động nói : “Ngài là người xuất gia tu đạo gặp lúc thất mùa đói khát, chẳng có cơm ăn, thật là đáng thương. Ngài không hiềm cơm canh đạm bạc thì con dâng cúng cho Ngài”.
Vị Bích Chi Phật nói :”Ông chịu bố thí cho tôi thật là tốt, tôi sẵn sàng nhận sự cúng dường của ông, nhưng ông lấy gì để ăn?” A Nậu Lâu Ðà nói :”Hôm nay con không ăn cũng không sao”. Do đó, vị Bích Chi Phật thọ trai xong rồi, bèn hiển thần thông hiện mười tám thứ biến hoá, nói :”Ta đã thọ sự cúng dường của ông, sau này đời đời kiếp kiếp ông sẽ chẳng còn nghèo khổ nữa”. Vị Tỳ Kheo hồi hướng cho ông rồi, Ngài A Nậu Lâu Ðà tiếp tục làm việc, chẳng bao lâu trong rẫy chạy ra một con thỏ. Con thỏ rất kỳ lạ, nhảy nhót đùa giỡn chung quanh rồi chạy lên vai Ngài A Nậu Lâu Ðà không chịu xuống.
Ngài A Nậu Lâu Ðà lấy xuống mà không cách chi gỡ xuống được, mới trở về nhà, kêu vợ của ông ta cầm con thỏ xuống. Cầm xuống thì con thỏ sống đã biến thành con thỏ bằng vàng óng ánh sáng chói, do đó ông ta bèn chặt cái chân trước để đi bán lấy tiền, nhưng cái chân bị chặt chẳng bao lâu lại mọc ra như cũ. Cho nên, từ đó về sau Ngài A Nậu Lâu Ðà không những đời này trở thành phú ông giàu có, mà cho đến chín mươi kiếp cũng đều vinh hoa phú quý. Ðó là A Nậu Lâu Ðà cúng dường cho vị Bích Chi Phật mà đắc được quả báo không nghèo.
A Nậu Lâu Ðà thích nhất là ngủ, có một lần đức Phật đang giảng Kinh thuyết pháp mà Ngài ngủ gục, bị Phật quở trách, Ngài A Nậu Lâu Ðà hổ thẹn vô cùng, mới phát tâm tinh tấn dũng mãnh không ngủ. Bảy ngày bảy đêm không ngủ, mắt bị lòa. Ðức Phật thương xót mới dạy Ngài tu Tam muội Kim Cang Chiếu Minh. Không lâu, Ngài đắc được thiên nhãn thông, thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, như thấy trái Am Ma La trong lòng bàn tay. Trong số đệ tử của đức Phật Ngài A Nậu Lâu Ðà là người có thiên nhãn đệ nhất.
Do đó, cuộc đời của Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà đáng coi là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Vì quả lành noi gương ấy cũng chẳng kém gì hạnh phúc của sự thực hành đúng lời Phật dạy.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
Dành cho bạn
Pháp môn Tịnh độ ở Nam bộ Việt Nam
Nghiên cứuDo bối cảnh địa-lịch sử và địa-văn hóa đặc thù ở Nam bộ Việt Nam, đã xuất hiện khá nhiều hội đoàn, đạo giáo có thực hành pháp môn Tịnh độ so với các vùng miền khác trong cả nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tông phái Tịnh độ riêng biệt.
Tâm giải thoát là tiêu chuẩn duy nhất xác chứng một vị A-la-hán
Nghiên cứuTrong suốt lịch sử Phật giáo, hình ảnh bậc A-la-hán luôn là biểu tượng tối thượng của con đường giải thoát, là đích đến của Giới Định Tuệ, là cánh cửa mở ra Niết-bàn không còn tái sinh. Nhưng để hiểu đúng về A-la-hán, người học Phật phải vượt qua mọi lớp khái niệm vay mượn, mọi tưởng tri thần thoại, để trở về với chân nghĩa mà Đức Thế Tôn từng dạy trong các kinh tạng nguyên thủy.
Sự ra đời và hoạt động của Giáo hội Lục hòa tăng
Nghiên cứuSự ra đời của Giáo hội lục hoà tăng nhằm “duy trì nền tảng cổ truyền và thực hiện nền giáo dục Phật lý mà nghìn xưa đức Phật đã dạy.
Câu chuyện linh ứng khi niệm Quan Thế Âm Bồ tát
Nghiên cứuKhi còn ở trong nước, mỗi khi đi học rồi sau đó đi làm, con đều đi xe đạp, lên xe cũng chân trái đạp xuống Nam mô, chân phải đạp xuống A, chân trái Di Đà, chân phải Phật, cứ vậy vừa đi xe đạp vừa niệm Phật cho tới trường hay sở làm.
Xem thêm














