Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU

Chữ “nghiệp” qua một số nghiên cứu

Khái niệm nghiệp rất quan trọng trong đạo Phật, dùng chỉ quy luật chung nhất về nguyên nhân và kết quả. Mỗi tác động dưới các điều kiện và duyên nhất định sẽ tạo thành hệ quả.

Dựa vào “khuôn vàng thước ngọc” là Từ điển Phật học, tôi thấy “nghiệp” được viết như sau: “1- Hành vi, hành động, hoạt động; 2- Hành vi của con người; cách cư xử, tư cách, bao gồm 3 hành vi thuộc ý, miệng, và thân; 3- Dấu tích, kết quả lưu lại từ 3 hành vi của nghiệp; năng lực vận hành tiềm tàng – nhân duyên tạo thành từ những hành vi mà cuối cùng sẽ tạo ra các kết quả khác; 4- Hành vi xấu ác, tai hại, mê muội; 5- Hạnh thanh tịnh; 6- Nỗ lực, tinh tấn, phấn đấu.

Khái niệm nghiệp rất quan trọng trong đạo Phật, dùng chỉ quy luật chung nhất về nguyên nhân và kết quả. Theo đạo Phật, mỗi tác động (nghiệp) dưới các điều kiện và duyên nhất định sẽ tạo thành hệ quả. Một khi quả đó chín, nó sẽ rơi trở lại người tạo ra nó. Muốn thành quả, một nghiệp là phải tốt hay xấu và là một hành động cố ý. Vì sự cố ý đó, một nghiệp để lại một dấu vết nơi tâm thức của người tạo nghiệp và tâm thức đó sẽ hướng theo những sự tạo tác của chính mình. Thời gian để một quả chín muồi có thể kéo dài rất lâu và chính nó tác động lên sự tái sinh và làm loài hữu tình, trong đó có người, cứ lưu mãi trong luân hồi.

Nghiệp dưới các điều kiện và duyên nhất định sẽ tạo thành hệ quả.

Nghiệp dưới các điều kiện và duyên nhất định sẽ tạo thành hệ quả.

Thiện ác nghiệp báo

Một nghiệp được gây ra hoặc bằng một hành động thuộc thân, thuộc tâm hay ngôn ngữ. Như thế khi người ta có ý làm cái gì thì đã tạo nghiệp, không nhất thiết việc làm đó xảy ra hay không. Chính tư tưởng đã tạo tác nghiệp. Một hành động sẽ không gây nghiệp nếu nó được thực hiện mà không xuất phát từ tham, sân, si. Một nghiệp tốt có thể mang lại kết quả tốt trong một sự tái sinh. Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là chấm dứt tái sinh. Muốn thoát khỏi luân hồi, con người phải từ bỏ nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu. Cần phải hiểu nghiệp và nghiệp lực không đồng nghĩa với thuyết cho rằng mọi sự đều được quyết định sẵn (thuyết định mệnh). Nghiệp làm con người tái sinh trong một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định, nhưng hành động con người trong cuộc đời đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn cảnh, sự phản ánh đối với hoàn cảnh này lại nằm trong tay con người”(1).

Đọc tới đọc lui, hết ngẫm tới nghĩ đã nghe lùng bùng lỗ tai và thấy việc học Phật không đơn giản chút nào. Một hôm cơ duyên đưa đẩy, tôi đọc được bài “Nhận thức luận kinh Thủ Lăng Nghiêm” của Tuệ Vũ đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2/2001, tôi biết thêm nghiệp không chỉ như giải thích của Từ điển Phật học dẫn trên, mà còn có “nghiệp chung”, “nghiệp riêng”. Theo Tuệ Vũ, “Nghiệp chung là tính cách giống nhau của nhiều người cùng sinh sống trong một môi trường rộng lớn (một nước). Nghiệp riêng là của một cộng đồng nhỏ (làng bản) hay một cá nhân. Dù nghiệp chung, dù nghiệp riêng nếu chúng ta hiểu ra rằng, tính hay phân biệt, tính cách đối đãi Năng, Sở ấy chính là một thứ bệnh lòa của con mắt nhận thức thế tục thì sự hiểu biết ấy là nhận thức không có bệnh; là Cái thấy không bị điều kiện hóa, nó nhận ra được Tính Thấy”(2).

Muốn thành quả, một nghiệp là phải tốt hay xấu và là một hành động cố ý.

Muốn thành quả, một nghiệp là phải tốt hay xấu và là một hành động cố ý.

Chiến dịch 'Ngưng tạo nghiệp': Mua một ngà voi nhận một quả báo

Để hiểu cái “nghiệp chung”, “nghiệp riêng” này, người học Phật phải biết tới Tâm Năng và Tâm Sở, tức là biết được “Cái thấy” và “Cái bị thấy”. Theo lý giải của Tuệ Vũ thông qua kinh Lăng Nghiêm, thì “Cái bị thấy” gọi là Tâm Sở. “Cái thấy” còn gọi là “kiến phần”. Kiến phần gọi là Tâm Năng. Tâm Năng và Tâm Sở đều từ một Tâm mà sinh ra.

Nhưng chữ “nghiệp” ấy là “đặc sản” của đạo Phật hay của tôn giáo có trước thời đức Phật? Trong bài “Nhân bản luận Phật giáo, cứu cánh của con người hiện đại”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2/2001, Chí Anh cho rằng: “Hai giáo lý quan trọng mà người học Phật phải biết rõ. Đó là Nghiệp báo và Luân hồi, hay những kiếp sinh tồn trở đi trở lại. Đó cũng là hai giáo lý cốt yếu của Ấn Độ giáo, nhưng người theo Ấn giáo thấm nhuần những ý niệm về một linh hồn tự ngã, trái lại Phật giáo hoàn toàn phủ nhận”(3). Như vậy, Nghiệp báo và Luân hồi có trước thời đức Phật. Và đến thời đức Phật đã có lý giải khác về vấn đề này.

Theo nghiên cứu của mình, Chí Anh cho biết Phật giáo đã có lý giải khác về Nghiệp báo và Luân hồi so với cách lý giải của Ấn Độ giáo, như sau: “Nghiệp báo và Luân hồi là định luật mang tính nhân quả, là ánh sáng rọi bản thể con người. Do đó, nó chính là nền móng đạo đức học của Phật giáo. Tóm lại, hiểu một cách rốt ráo, Nghiệp báo là sự tác ý hay ý muốn. Còn Luân hồi theo Phật giáo thì sau khi chết hoặc trước khi sinh ra không có đời sống nào nơi con người là không tùy thuộc vào Nghiệp, hay hành động có tác ý. Nghiệp báo là hệ luận của Luân hồi, và ngược lại. Luân hồi là hệ luận của Nghiệp báo. Hai giáo lý này bổ sung và gắn bó với nhau rất mật thiết”(4).

Một nghiệp được gây ra hoặc bằng một hành động thuộc thân, thuộc tâm hay ngôn ngữ.

Một nghiệp được gây ra hoặc bằng một hành động thuộc thân, thuộc tâm hay ngôn ngữ.

Yếu tố giúp nhận biết bản thân có tạo ác nghiệp hay không

Chí Anh cho biết thêm: “Luận cứ Nghiệp từ kinh Vệ Đà qua đạo Phật đã biến đổi và mang một sắc thái khác hẳn: Nghiệp Phật giáo hàm chứa tính chất tự do và tinh thần trách nhiệm của cá nhân trên lộ trình đi đến bến bờ giác ngộ… Ở đây cần phải nói là Nghiệp đã dạy cho con người tự mình xây dựng kiếp mai sau cho mình, chứ không trông chờ ở Đấng Sáng tạo Brahma ban phát cho một ân huệ siêu hình nào cả”(5). Và kết luận: “Phật giáo đã đặt vấn đề lý giải hành động con người trên cơ sở hợp lý, và Thiện, Ác cũng không do siêu hình bản thể nào áp đặt, mà do chính con người quyết định. Ở đây ta thấy nghiệp Phật giáo thể hiện tính công lý và công bằng triệt để”(6).

Chỉ một chữ “nghiệp” mà đã rắc rối đến thế đấy, nên ai dám nói học Phật chẳng có gì khó?

CHÚ THÍCH:

(1) Ban Biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, NXB Tôn giáo, H, 2016, trg 388.

(2) Tuệ Vũ, Nhận thức luận kinh Thủ Lăng nghiêm, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2/2001, trg 10.

(3) Chí Anh, Nhân bản luận Phật giáo, cứu cánh của con người hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2/2001, trg 16.

(4) Nhân bản luận Phật giáo, cứu cánh của con người hiện đại, đd, trg 16.

(5) Nhân bản luận Phật giáo, cứu cánh của con người hiện đại, đd, trg 17.

(6) Nhân bản luận Phật giáo, cứu cánh của con người hiện đại, đd, trg 17.

Theo: Tạp chí Nghiên cứu Phật học số tháng 11/2020

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Làm thế nào để tiêu trừ tội nạo phá thai?

Nghiên cứu 15:36 02/11/2024

Trong kinh Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni có nói rằng, nạo phá thai là một tội sát sinh vô cùng lớn, quả báo cũng rất nặng. Tại sao trong cuốn Hiện Đại Nhân Quả Thực Lục do thầy viết lại không có ví dụ nào về việc này?

Thai nhi thích nghe Kinh Địa Tạng

Nghiên cứu 15:06 02/11/2024

Một người hàng xóm nói với tôi rằng, con gái bà ấy đang mang thai tám tháng rồi, phản ứng thai nghén rất mạnh. Trong mấy tháng gần đây, thai nhi thường xuyên đấm đá trong bụng, khiến con gái bà ấy rất đau đớn.

Lối sống mang lại hạnh phúc từ triết lý tiết độ trong kinh Trung A Hàm

Nghiên cứu 08:10 01/11/2024

Phật dạy phải biết tinh tấn tu tập. Để làm được như thế, con người phải biết làm chủ mình trong cuộc sống thông qua tinh thần kỷ luật, mà trong Phật học gọi là Giới. Đó là “những điều răn cấm do Đức Phật chế định cho hàng xuất gia và tại gia để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp”.

Xem thêm