Chuyện đời khó nói
Tôi có một cô bạn ở Huế, thường xuyên đi làm từ thiện tại các nhà thương, các trại khuyết tật, trại mù và trao học bổng cho học sinh nghèo ở những vùng xa thành phố. Bất cứ lúc nào, ở đâu cần đến, nếu có thể, cô đều có mặt.
Cô vận động sự đóng góp từ các nhà hảo tâm ở khắp nơi; bất cứ ai cho được bao nhiêu, cô đều gom góp rồi mang đến hỗ trợ những người nghèo khổ. Hơn mười năm nay, việc làm từ thiện của cô dần dần trở thành như một “bổn phận” – một tâm nguyện âm thầm để phần nào xoa dịu những nỗi thống khổ và thiếu thốn của cuộc đời.
Tôi thường hỏi cô về hoàn cảnh của những người mà cô đã giúp. Lần nào cô cũng trả lời: “Có nói cũng không bằng nhìn thấy. Anh nên đi một lần cho biết”.
Một hôm, tôi quyết định tháp tùng cô. Nói “tháp tùng” nghe có vẻ như đi theo một đoàn từ thiện, nhưng thật ra những chuyến đi như thế thường chỉ có một mình cô và một người bạn khác; đôi khi cô còn đi một mình.
Hôm ấy, chúng tôi vào thăm bệnh viện Huế, khu dành cho những người nghèo. Cô bạn tôi phát quà cho tất cả mọi người, không chỉ bệnh nhân mà cả những người nuôi bệnh. Quà chỉ là một phong bì nhỏ chừng một hai trăm nghìn, một hộp cơm và chút thức ăn. Bởi không chỉ bệnh nhân thiếu thốn, mà người nuôi bệnh cũng vậy.
Những người đưa thân nhân vào đây chữa trị phần nhiều đã phải bán hoặc cầm cố nhà cửa, vay mượn bà con lối xóm để lo chi phí. Bao nhiêu tiền đều dành cho việc chữa trị; nằm viện càng lâu thì gia cảnh càng kiệt quệ. Hết tiền thì đành dừng chữa trị. Vậy mà chỉ với một phong bì mỏng và một hộp thức ăn nhỏ, ai nấy đều mừng rỡ; họ nhìn cô bạn tôi như một vị Bồ-tát cứu khổ.
Khi vào một căn phòng khác, tôi thấy trên giường là một người phụ nữ được băng bó gần như toàn thân, chỉ còn chừa khuôn mặt trẻ. Bên cạnh là một người thanh niên – có lẽ là chồng – ngồi bất động như một pho tượng, nước mắt lưng tròng. Hỏi chuyện, anh vừa khóc vừa kể:
Không lâu trước đó, vào những ngày cận Tết, vợ anh ở huyện Đa’Krong (Quảng Trị) nấu ăn, vô ý để lửa bén vào thùng xăng cạnh bếp. Ngọn lửa bùng lên khiến cô bị bỏng toàn thân rất nặng. Anh gửi hai con nhỏ cho ông bà nội rồi đưa vợ vào bệnh viện Huế chữa trị. Đưa vợ vào Huế là phản ứng tự nhiên, nhưng khi nhập viện, anh mới biết số tiền vay mượn bà con chòm xóm hoàn toàn không đủ để chi trả cho quá trình chữa trị kéo dài.

Một ngày trước đó, thân phụ anh gọi điện báo đã hết chỗ vay mượn, khiến anh quẫn trí, không biết xoay xở thế nào. Nghe vậy, cô bạn tôi liền móc hết tiền trong túi, rồi hỏi mượn tôi thêm một ít và đưa toàn bộ cho anh. Anh nhìn cô sững sờ, không thốt nên lời, rồi bỗng òa khóc nức nở như một đứa trẻ.
Tôi thực sự không biết phải nghĩ sao trước những gì diễn ra. Mỗi lần cô trao phong bì hay hộp thức ăn cho bệnh nhân và người thân, tôi thấy mắt họ sáng lên, miệng chỉ lắp bắp mấy lời cảm ơn. Có người vừa nhận xong đã ngồi vào một góc để ăn ngay. Cô bạn tôi không biết họ là ai, và họ cũng không biết cô là ai – trừ vài trường hợp đặc biệt. Có lẽ hằng ngày, họ vẫn chờ đợi một người bước vào phòng, ăn mặc chỉnh tề, không chung hoàn cảnh khốn khó như họ, để mang đến chút hy vọng.
Trở về nhà, cô lập tức lên mạng, gửi tin đến bạn bè hảo tâm khắp nơi để xin giúp đỡ cho anh thanh niên có vợ bị phỏng. Nhờ uy tín của cô, bạn bè đã gửi về khá nhiều tiền; nhờ đó, người vợ được tiếp tục chữa trị và dần bình phục.
Sau này, trong một lần ra Huế, tôi đến thăm và hỏi cô về người thanh niên có vợ bị bỏng nặng hồi trước.
Cô kể lại cho tôi nghe rằng khoảng sáu tháng sau, trước khi xuất viện, người chồng đã tìm đến nhà để cảm ơn cô. Anh nắm chặt hai bàn tay cô bạn tôi, vừa khóc vừa bày tỏ lòng biết ơn vì cô đã giúp cứu mạng vợ anh. Anh nói: “Cô hiện đến như một vị Bồ-tát sống, đúng lúc con quẫn trí không biết phải làm thế nào nữa”.
Sau khi hai vợ chồng trở về Quảng Trị, ngày nào người chồng cũng nấu một nồi nước chè thật đậm để tắm rửa cho vợ, giúp vết thương mau lành hơn. Thế nhưng tay chân cô vẫn còn cứng đờ, không cử động được, cũng không ngồi lên được. Ngày nào anh cũng kiên nhẫn xoa bóp, tập cho vợ cử động từng chút một. Thỉnh thoảng, anh lại cõng vợ sang nhà bà con để cô được chuyện trò, khích lệ tinh thần. Nhờ sự chăm sóc tận tụy ấy, dần dần người vợ bình phục và có thể trở lại lo việc nhà.
Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đó. Một năm sau, một trận lũ lớn đổ về Quảng Trị. Nước lũ tràn nhanh, người chồng phải cõng vợ, dắt theo hai con nhỏ chạy đi sơ tán. Nhà cửa, đồ đạc bị nước cuốn đi sạch. Khi nghe tin, cô bạn tôi lại tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm. Cuối cùng, hai vợ chồng cũng có được một nơi ở mới khang trang để bắt đầu lại cuộc sống.
Dù nghèo khó, hai vợ chồng luôn giữ phẩm hạnh và lòng tự trọng. Họ chưa từng xin cô bạn tôi bất cứ điều gì; thỉnh thoảng chỉ gửi những lá thư cảm ơn chân thành. Tôi nghĩ, rõ ràng anh chồng có “cái duyên lành” gặp được cô bạn tôi đúng lúc ngặt nghèo nhất.
Những câu chuyện như thế này chỉ là một trong vô số hoàn cảnh thương tâm của người nghèo mà chúng ta có thể đọc thấy mỗi ngày trên báo. Một người nghèo lấy vợ hoặc chồng nghèo, sống với hai gia đình nghèo trong một vùng đất nghèo ở xa thành phố. Họ chưa có một bữa ăn ngon và chỉ ăn để đủ sức làm ruộng làm rẫy sống qua ngày. Nếu phải hỏi họ sống để làm gì thì chắc chắn họ cũng chỉ có thể trả lời: “Sống để mà sống vì không thể làm gì khác hơn”. Đọc báo và thấy thực tế trước mắt là hai chuyện khác nhau rất nhiều.
Câu chuyện về vợ chồng anh thanh niên có vợ bị bỏng làm tôi nghĩ đến sự cách biệt giữa hai cuộc sống hoàn toàn khác biệt nhau: Giàu và nghèo. Đúng ra là “giàu có” và “nghèo khổ”. Thực ra đó cũng chỉ là chuyện bình thường. Thời nào chẳng có người giàu kẻ nghèo. Nước nào mà chẳng có người giàu kẻ nghèo. Nhưng nghèo như Ấn Độ, như nước mình thì cũng có khác với nghèo của nước Mỹ. Giàu có hay nghèo khổ cũng đều có một cuộc đời và cũng đều phải đi theo cuộc đời đó cho đến cùng.
Cô bạn tôi thường đi làm từ thiện ở khắp tỉnh Thừa Thiên bao gồm cả thành phố Huế. Cô thường thông tin cho bạn bè, những nhà hảo tâm về những trường hợp thương tâm như câu chuyện vừa rồi để xin quyên góp. Nhiều người cần một trăm triệu, nghĩa là khoảng năm ngàn đô-la Mỹ để cứu mạng bằng một cuộc phẫu thuật. Gia đình họ đã phải cầm luôn căn nhà, bán hết đồ đạc được sáu bảy chục triệu, nhưng nếu không xin được thêm vài chục triệu cho đủ số thì cũng đành giao cái mạng sống cho trời. Cô nói: “Nếu nói đến những người nghèo khổ thì việc từ thiện không biết bao nhiêu cho đủ, nên chỉ có thể tùy duyên thôi. Người nào được giúp đỡ thì đó là cái may mắn, cái duyên của họ”.
Ở trong thành phố thì có thể không thấy, không biết, nhưng đi xa một chút, những vùng quê, vùng xa mới thấy dân mình nghèo lắm. Nghèo “rớt mồng tơi”. Không hiểu sao lại có thành ngữ đó, không biết từ đâu ra, nhưng nghe ra thấy đã có vẻ nghèo hết nước nói. Đói thì có thể bạ gì ăn nấy, khoai sắn rau củ qua ngày, nhưng có bệnh thì chịu. Dân trong thành phố mức sống thấp nhất là công nhân, lương ba đồng ba cọc, nhưng dù sao cũng có chút bảo hiểm y tế, chứ nếu là buôn thúng bán bưng, khi đau ốm hay gặp tai nạn phải vào bệnh viện thì đúng là một chuyện vô cùng cay đắng.
Những người nghèo khổ thì ăn cho đủ sống đã quý lắm rồi, làm gì biết đến những chuyện giải trí, thời trang, ca nhạc, showbiz, hay những gì là bước nhảy hoàn vũ… Những chuyện đó cũng không trách được, nhưng nhiều khi nghĩ lại, thấy cũng có chút chi bất công, không ổn.
Không lâu trước đây có một tổ chức ca nhạc ngoài trời ở Đà Nẵng. Nghe nói cát-sê của cô ca sĩ chính có giá là sáu ngàn đô-la Mỹ. Không biết có chuyện ca sĩ đòi như thế hay không, chỉ thấy báo chí nói đến chuyện này rất nhiều và phần đông, ai cũng cho là cái giá đó quá cao. Nghĩ ra thì cao thật. Mặc dù ai cũng biết trong ngành giải trí, các ca sĩ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng chỉ hát vài bài mà được trả đến sáu ngàn đô Mỹ thì quả là khủng khiếp. Sáu ngàn đô Mỹ nghĩa là hơn một trăm hai chục triệu. Lương công nhân hiện tại khoảng trung bình ba triệu mỗi tháng, mỗi năm kể cả phụ cấp, có thể kiếm được hơn bốn chục triệu là nhiều. Làm quần quật cho được ba năm thì cũng chỉ mới bằng cô ca sĩ kia hát vài bài mà thôi.
Nghe nói vì cát-sê cao quá nên ban tổ chức không thuê nữa. Cũng phải. Chuyện thuê hay không thuê cô ca sĩ kia cũng không có chi đáng bàn, nhưng có chuyện bên lề câu chuyện kia mới đáng nói. Đó là có một ông bầu sô lên tiếng, cho rằng cát-sê sáu ngàn đô Mỹ cũng là…. bình thường, không có gì gọi là cao cả. Nghe mà cồn cào cả gan ruột. Nhưng nghĩ lại, ông bầu đó nói cũng không có gì sai, bởi vì đây là chuyện giải trí của người có tiền, chứ đâu phải là chuyện sống chết của những người nghèo khổ. Hai chuyện chẳng có gì liên quan với nhau cả. Người ta có thể bỏ ra một hai triệu mua một cái vé nghe nhạc phòng trà một cách dễ dàng. Vé mua đến một vài triệu thì ca sĩ phải lãnh nhiều tiền là chuyện dĩ nhiên. Có ai đang ngồi nghe nhạc mà lại nghĩ đến chuyện có những người chỉ cần một số tiền chừng vài ba chục cái vé nghe nhạc là có thể được cứu mạng sống của họ đâu. Nếu có người vừa trông thấy anh chàng thanh niên kia ngồi bất động, nhìn vợ có thể sắp chết mà nước mắt lưng tròng thì chắc chắn họ cũng sẽ không có tâm trạng hứng thú bỏ ra vài triệu mua một cái vé đi nghe ca nhạc cho đã cái lỗ tai. Không thể trách được, vì làm sao họ có thể thấy được những cảnh đó?
Ca sĩ nổi tiếng ai cũng biết. Họ được quảng cáo, ca tụng, đăng hình khắp nơi. Nổi tiếng hơn cả những người viết ra những ca khúc làm cho họ nổi tiếng nữa là khác. Ca sĩ nổi tiếng luôn luôn có những “người hâm mộ”. Trước sân khấu thì hò hét cổ vũ một cách điên cuồng. Ở xa, không hò hét cổ vũ được thì lên mạng ca tụng, chia sẻ tình cảm hết lời. Ca sĩ nổi tiếng nhất có thể có đến hàng chục ngàn người hâm mộ. Chụp được một tấm hình chung với ca sĩ nổi tiếng là một điều vinh dự của người hâm mộ.
Cô bạn của tôi thì không nổi tiếng, không có người hâm mộ và chẳng có ai biết đến ngoài những người hàng ngày, hàng tuần chờ cô đến với một phong bì tiền và một hộp thực phẩm, một số tiền học bổng để có thể tiếp tục đến trường. Nhưng con số những người trông mong sự có mặt của cô có thể lên đến hàng trăm ngàn người, đông gấp mấy lần số “người hâm mộ” một ca sĩ nổi tiếng nhất. Họ không có sân khấu để cổ vũ và họ cũng không có mạng vi tính để ngay cả gửi lời cám ơn cô bạn tôi. Đối với những kẻ nghèo khổ, những người như cô bạn kia của tôi cũng là thần tượng của họ.
Nghĩ cho cùng, chuyện đời cũng khó nói thật.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Nghĩ về những người Thầy
Phật pháp và cuộc sốngXin thành kính dâng tặng những người Thầy đã cho con từng con chữ. Xin trọn đời tri ân những người Thầy đã khai tâm mở trí cho con trên đường tìm về Đạo Pháp! “Người Thầy là ngọn nến, đốt cháy mình để thắp sáng nhân gian” (Ngạn ngữ Ixraen).
Từ "chẩn đoán bằng định mệnh" đến "bước nhảy xuyên hầm lượng tử"
Phật pháp và cuộc sốngÁnh sáng Phật giáo, giải Nobel Vật lý 2025 và hành trình chuyển hóa của hiện tượng Khắc Hưng.
Mẹ tôi cũng bán bắp
Phật pháp và cuộc sốngTrên đường từ Trường Đại học Quy Nhơn về phòng trọ, chỗ gần ngã tư có một người phụ nữ lớn tuổi bán bắp luộc hay ngồi ở đấy. Tôi đi bộ đến trường, chiều nào tan học về cũng gặp cô và nghe cô mời chào.
Ta cứ tưởng thứ mình tìm nằm ở bên ngoài
Phật pháp và cuộc sốngTình yêu lớn nhất mà ta khao khát là cảm giác được hiểu, được an trú, được bình yên không đến từ ai cả. Nó đến từ khoảnh khắc ta quay về bên trong và thấy mình đủ.
Xem thêm














