Chuyển nghiệp - Con đường thanh lọc thân, khẩu, ý theo lời Phật dạy
“Ai dùng các hạnh lành/ Làm xóa mờ nghiệp ác/ Chói sáng rực đời này/ Như trăng thoát mây che” (1).
Đó là quan niệm chuyển nghiệp được nhấn mạnh trong đạo Phật, tức nỗ lực dùng các hạnh lành để xua tan nghiệp ác - “Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy”(2) - khiến cho nhân tính được trong sáng, sự sống được an lạc. Vì con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp (3).
Trong quan niệm về khổ đau và hạnh phúc, đạo Phật nói đến nghiệp (hành động có chủ ý) và nêu rõ chính nghiệp (kamma) là tác nhân gây nên khổ đau hoặc mang lại hạnh phúc cho con người. Con người có ba cơ sở chính để thực hiện các hành vi (nghiệp) của mình gọi là thân, khẩu, ý. Những hành vi nào được hình thành, ấp ủ và trôi chảy trong nội tâm thì gọi là ý nghiệp (manokammanta). Những hành vi xuất phát từ nội tâm biểu hiện ra bên ngoài ngang qua lời nói và việc làm thì được gọi là khẩu nghiệp (vàcìkammanta) và thân nghiệp (kàyakammanta). Theo lời Phật thì nghiệp cơ bản có hai đặc tính là thiện (kusala) và bất thiện (akusala). Ví dụ, các hành vi hiền thiện thể hiện qua thân, khẩu, ý như không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận, không tà kiến thì được gọi là các nghiệp thiện (kusalakammantà). Ngược lại, các hành vi xấu ác như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến được xem là các nghiệp bất thiện (akusalakammantà).
Đức Phật chứng nghiệm rất rõ quy luật nhân quả của các nghiệp thiện ác (4). Theo lời Ngài, các nghiệp thiện được thực hiện, được chắt chiu sẽ mang lại kết quả an lạc; trái lại, các nghiệp bất thiện được làm, được tích tập sẽ đưa đến quả báo khổ đau: “Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này” (5). Chính vì vậy mà Đức Phật chủ trương lý thuyết nghiệp và chuyển nghiệp, nhấn mạnh đến khả năng làm thay đổi, chuyển hóa các nghiệp bất thiện thành các nghiệp thiện, khuyên nhắc mọi người quyết tâm từ bỏ các ác nghiệp, nỗ lực thực hành các thiện nghiệp, cũng có nghĩa là chuyển hóa lối sống phiền não khổ đau thành hạnh phúc an lạc. Ngài xác chứng cho cho Tôn giả Ànanda:
“- Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ànanda, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm.
- Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại gì được chờ đợi?
- Vì rằng, này Ànanda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như sau được chờ đợi: Tự mình chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí chê trách; tiếng ác đồn xa; bị mê ám khi mạng chung; sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vì thế, này Ànanda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như vậy được chờ đợi.
- Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ànanda, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm.
- Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích gì được chờ đợi?
- Vì rằng, này Ànanda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như sau được chờ đợi: Tự mình không chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí tán thán; tiếng lành đồn xa; không bị mê ám khi mệnh chung; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Vì thế, này Ànanda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như vậy được chờ đợi” (6).

Với quan niệm nghiệp quyết định vận mệnh của loài hữu tình, Đức Phật đánh giá cao ý chí hướng thiện của con người và chủ trương cải thiện đời sống hạnh phúc an lạc bằng phương pháp chuyển nghiệp, tức quyết tâm dứt trừ lối sống bất thiện, nỗ lực thực thi nếp sống hiền thiện. Ngài cho rằng do nghiệp duyên được tích tập mà con người sinh ra ở đời thừa hưởng nhiều thân phận khác nhau - người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh (7). “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”, bởi vì không ai có thể làm cho quay trở lại những gì đã trôi qua. Tuy nhiên, “thiện căn ở tại lòng ta”; một khi hiểu ra mình vừa là chủ nhân vừa là kẻ thừa tự của nghiệp (8) thì con người có thể chủ động làm thay đổi thân phận hiện tại và tương lai của mình bằng chính nếp sống sáng suốt, chơn chánh và hiền thiện. Đức Phật thuyết giảng về nghiệp và chủ trương chuyển nghiệp là vì thế. Phải sáng suốt nhận ra quy luật nhân quả nghiệp báo, ý thức rõ không ai khác chính nghiệp quyết định vận mệnh khổ đau hay an lạc của chính mình thì mới biết cách và mới đủ kiên nhẫn để từng bước thực hành chuyển nghiệp. Bậc Giác ngộ dùng hình ảnh bốn hạng người (9) để để lưu nhắc cho mọi người về hậu quả tối tăm của lối sống thiếu hiểu biết về nghiệp và nghiệp quả, đồng thời nhấn mạnh về tương lai tươi sáng của những người hiểu rõ quy luật nhân quả nghiệp báo, biết định hướng cho đời sống an lạc của chính mình bằng con đường chuyển nghiệp:
1. Hạng người sống trong bóng tối hướng đến bóng tối: Có người do ác nghiệp quá khứ sanh ra ở đời với thân phận bất hạnh, khổ đau, chịu nhiều bệnh tật. Người ấy không nhận thức được quy luật nhân quả nghiệp báo, tiếp tục làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người sống trong bóng tối hướng đến bóng tối.
2. Hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng: Có người do ác nghiệp quá khứ sanh ra ở đời với thân phận bất hạnh, khổ đau, chịu nhiều bệnh tật. Nhưng người ấy hiểu được quy luật nhân quả nghiệp báo, kiên quyết không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng.
3. Hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối: Có người do thiện nghiệp quá khứ ra đời với hoàn cảnh may mắn, thuận lợi, không chịu nhiều bệnh tật. Nhưng người ấy không ý thức được quy luật nhân quả nghiệp báo, chuyên tâm làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối.
4. Hạng người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng: Có người do thiện nghiệp quá khứ ra đời với hoàn cảnh may mắn, thuận lợi, không chịu nhiều bệnh tật. Người ấy hiểu rõ quy luật nhân quả nghiệp báo, không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy tiếp tục sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng.
Như vậy, nhận thức đầy đủ về nghiệp (kamma) và kết quả của nghiệp (kammavipàka) chính là cơ sở để con người quyết định về đời sống của chính mình, bắt đầu làm chủ cuộc sống của chính mình, biết cách chuyển hóa, làm thay đổi đời sống của mình theo chiều hướng tốt đẹp nhằm thoát ly phiền não khổ đau, thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Đó chính là sự thực thi lẽ sống chơn chánh sáng suốt, có suy tư chín chắn, có cân nhắc thận trọng trong từng ý nghĩ, từng lời nói, từng việc làm, sao cho mỗi mỗi hành vi (nghiệp) đều trở nên chơn chánh hiền thiện, không sai lầm xấu ác, đều đưa đến hạnh phúc an lạc, chấm dứt mọi hệ lụy khổ đau. Đức Phật gọi lẽ sống như vậy là sự thực hành chuyển nghiệp, tức quyết tâm dứt trừ mọi điều ác, nỗ lực tích tập các việc lành; là tịnh hóa tam nghiệp thân khẩu, ý, khiến cho toàn bộ nhân tính được trong sáng và trong sạch, dần dần đi đến hoàn thiện, khiến cho sự sống được hạnh phúc an lạc, rời xa phiền não khổ đau. Ngài chỉ rõ cho mọi người cách thực thi lối sống chuyển nghiệp:
“Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ của các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những ta tự trách mắng ta vì duyên sát sanh; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên sát sanh; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên sát sanh. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự sát sanh này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên, do duyên sát sanh; đối với vị đã từ bỏ sát sanh, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể lấy của không cho, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của không cho, không những ta tự trách mắng ta vì duyên lấy của không cho; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên lấy của không cho; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên lấy của không cho. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự lấy của không cho này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên lấy của không cho; đối với vị đã từ bỏ lấy của không cho, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói láo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói láo; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên nói láo; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên nói láo. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói láo này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên, do duyên nói láo; đối với vị đã từ bỏ nói láo, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói hai lưỡi, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hai lưỡi, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói hai lưỡi; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên nói hai lưỡi; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên nói hai lưỡi. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói hai lưỡi này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên nói hai lưỡi; đối với vị đã từ bỏ nói hai lưỡi, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể có tham dục10, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta tham dục, không những ta tự trách mắng ta vì duyên tham dục; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu cũng khiển trách ta vì duyên tham dục; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên tham dục. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự tham dục này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên tham dục; đối với vị đã từ bỏ tham dục, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận (11), ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta hủy báng sân hận, không những ta tự trách mắng ta vì duyên hủy báng sân hận; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên hủy báng sân hận; và sau khi thân hoại mạng chung ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên hủy báng sân hận. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự hủy báng sân hận này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên hủy báng sân hận; đối với vị đã từ bỏ hủy báng sân hận, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể có phẫn não (12), ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn não, không những ta tự trách mắng ta vì duyên phẫn não; các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên phẫn não; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên phẫn não. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự phẫn nào này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên phẫn não; đối với vị đã từ bỏ phẫn não, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn (13), ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng ta vì duyên quá mạn; các bậc có trí sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên quá mạn. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự quá mạn này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên quá mạn; đối với vị đã từ bỏ quá mạn, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa” (14).
Tóm lại, với lý thuyết nghiệp và chuyển nghiệp, đạo Phật xác tín với mọi người rằng không ai khác ngoài con người có quyền quyết định vận mệnh của con người. Chỉ có ý chí (cetanà) và hành động (kamma) của con người quyết định hạnh phúc hay khổ đau của người ấy. Không có Đấng cứu thế hay Thượng đế ban phúc hay giáng họa cho con người. Chỉ có con người tự gây họa cho chính mình bằng lối sống mê lầm, sai trái, xấu ác hoặc tự tạo phúc cho mình bằng nếp sống sáng suốt, chơn chánh, hiền thiện. Nói cách khác, con người là chủ nhân ông của số phận mình; hạnh phúc hay khổ đau của con người là hoàn toàn tùy thuộc vào lối sống thiện hay bất thiện của chính người ấy. Nếu người ấy sống với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác thì theo đó khổ não sẽ bước theo sau, giống như cỗ xe lăn theo dấu chân con vật kéo xe (15). Trái lại, nếu người ấy sống với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện thì an lạc sẽ dõi theo sau, giống như bóng không rời hình vậy (16). Đó là lý do bậc Giác ngộ chủ trương chuyển nghiệp và không ngừng khuyên nhắc như vầy:
Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ. (17)
Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc. (18)
Vì:
Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi, sanh ăn năn;
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục. (19)
Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm xong, không ăn năn;
Hoan hỷ ý, đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục. (20)
Chú thích:
1. Pháp Cú, kệ số 173.
2. Pháp Cú, kệ số 223.
3. Kinh Sự kiện cần quán sát, Tăng Chi Bộ.
4. Xem 10 Như lai lực ở Đại kinh Sư tử hống, Trung Bộ.
5. Kinh Sợ hãi và khiếp đảm, Trung Bộ.
6. Kinh Các sức mạnh, Tăng Chi Bộ.
7. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung Bộ.
8. Kinh Sự kiện cần quán sát, Tăng Chi Bộ; Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung Bộ.
9. Kinh Tối tăm, Tăng Chi Bộ; Kinh Người, Tương Ưng Bộ.
10. Chỉ cho tham và tà tham, tức tham đắm cái của mình và muốn chiếm hữu cái của người khác.
11. Giận dữ bất mãn chê bai kinh miệt thị người khác.
12. Phẫn nộ và não hại người khác.
13. Tự cao tự đại, xem thường người khác.
14. Kinh Potaliya, Trung Bộ.
15. Pháp Cú, kệ số 1.
16. Pháp Cú kệ số 2.
17. Pháp Cú, kệ số 117.
18. Pháp Cú, kệ số 118.
19. Pháp Cú, kệ số 67.
20. Pháp Cú, kệ số 68.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Để mẹ nói, còn mình giữ tâm an
Phật giáo thường thức“Cứ để mẹ than phiền. Còn con, con sẽ không dao động”.
Cách nhận biết ma chướng trên đường tu
Phật giáo thường thứcNay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo.
Nghiệp chứa ở đâu?
Phật giáo thường thứcMột lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng: “Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?”.
Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!
Phật giáo thường thứcViệc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.
Xem thêm














