Đã mang lấy nghiệp vào thân
Với trí tuệ của bậc Toàn giác, Đức Phật thấy rõ nhân quả nghiệp báo khiến chúng sinh trôi lăn trong các cảnh giới luân hồi (1) với những thân phận sai biệt (2). Ngài biết rõ lối sống nào đưa chúng sinh đến cõi địa ngục, lối sống nào đưa đến cõi bàng sanh (thú vật), lối sống nào đưa đến cõi ngạ quỷ (quỷ đói), lẽ sống nào đưa đến cõi người, lối sống nào đưa đến cõi chư Thiên, và nếp sống nào đưa đến giải thoát, Niết-bàn (3).
Với sự chứng nghiệm đầy đủ về nhân quả nghiệp báo như vậy, Đức Phật chủ trương tuyên thuyết về nghiệp, xác định rõ vai trò trách nhiệm của chúng sinh đối với sự kiện hiện hữu của mình, đồng thời nhấn mạnh về khả năng thay đổi vận mệnh của chúng sinh ở trong các cảnh giới luân hồi, cơ bản do thay đổi lối sống hay chuyển hóa hành động gọi là chuyển nghiệp. Ngài tuyên bố: “Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp” (4); đồng thời nêu rõ căn nguyên của khổ đau và hạnh phúc: “Nếu với ý ô nhiễm mà nói năng hay hành động thì khổ não sẽ bước theo sau người ấy, giống như cỗ xe lăn theo bước chân con bò kéo xe; nhưng nếu với ý thanh tịnh mà nói năng hay hành động thì an lạc sẽ theo sau người ấy, như bóng không rời hình”(5).
Như vậy, vấn đề khổ đau hay hạnh phúc, trói buộc hay giải thoát của con người là hoàn toàn do con người quyết định, tùy thuộc vào nghiệp hay hành động có chủ ý (cetanà) của người ấy. Ngoài nghiệp ra, không ai khác có quyền khiến cho chúng sinh hạnh phúc hoặc đau khổ. Nếu ý nghĩ, lời nói và việc làm (gọi là ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp) của con người bị ô nhiễm, tức là bị tham-sân-si chi phối và sai sử (6), thì lối sống như vậy sẽ đưa đến phiền não khổ đau. Trái lại, nếu ý nghĩ, lời nói và việc làm của người ấy được thanh tịnh, nghĩa là không bị tham-sân-si chi phối và điều động (7), thì người ấy sẽ có được đời sống hạnh phúc, an lạc.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của nghiệp rồi thì mới có đủ tỉnh táo và tự tin trong vấn đề nỗ lực chuyển nghiệp, nỗ lực thay đổi hoàn cảnh hay vận mệnh của mình. Đạo Phật không chấp nhận có vấn đề thưởng phạt liên quan đến sự hiện hữu của con người trên cuộc đời, cũng không tin có may rủi xảy ra trong đời sống của mỗi cá thể. Tất cả mọi sự đều có nhân duyên, là sự biểu lộ của luật nhân quả mà tri thức loài người không thấy hết (8).

Đã là chủ nhân của số phận mình thì con người hoàn toàn có quyền định đoạt đời sống hiện tại và tương lai của mình. Không cần bận lòng trước đây mình thế nào, đã gieo nhân nào mà nay mình có mặt trên cuộc đời này. Chỉ cần học nghe bậc Giác ngộ dạy về nghiệp và nỗ lực làm theo thì biết rằng mình may mắn hơn nhiều chúng sinh khác vì được sinh ra làm người, có tri thức hiểu biết, có khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác, chánh tà, có môi trường tương đối thuận lợi để cải thiện đời sống của mình, đặc biệt là được Đức Phật chỉ cho cách thức sáng suốt và an toàn để chuyển hóa đời sống của mình, khiến cho mình càng ngày càng tốt đẹp hơn, hiền thiện hơn, an lạc hơn trong tiến trình đi đến hoàn thiện.
Đức Phật đưa ra bốn hạng người để gợi nhắc cho nhân loại về quy trình vận hành của nhân quả nghiệp báo (9):
1. Hạng người sống trong bóng tối hướng đến bóng tối: Có người do ác nghiệp quá khứ sanh ra ở đời với thân phận bất hạnh, khổ đau, chịu nhiều bệnh tật. Người ấy không nhận thức được quy luật nhân quả nghiệp báo, tiếp tục làm các ác hạnh về thân (sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục), về lời (nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm), về ý (tham dục, sân hận, tà kiến). Do làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người sống trong bóng tối hướng đến bóng tối.
2. Hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng: Có người do ác nghiệp quá khứ sanh ra ở đời với thân phận bất hạnh, khổ đau, chịu nhiều bệnh tật. Nhưng người ấy hiểu được quy luật nhân quả nghiệp báo, kiên quyết không làm các ác hạnh về thân (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục), về lời (không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm), về ý (không tham dục, không sân hận, có chánh kiến). Do không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng.
3. Hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối: Có người do thiện nghiệp quá khứ ra đời với hoàn cảnh may mắn, thuận lợi, không chịu nhiều bệnh tật. Nhưng người ấy không ý thức được quy luật nhân quả nghiệp báo, chuyên tâm làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối.
4. Hạng người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng: Có người do thiện nghiệp quá khứ sanh ra ở đời với hoàn cảnh may mắn, thuận lợi, không chịu nhiều bệnh tật. Người ấy hiểu rõ quy luật nhân quả nghiệp báo, không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý. Do không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy tiếp tục sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng.
Theo quan điểm của đạo Phật thì trừ những vị giác ngộ đã vượt ra ngoài cảnh giới sanh tử, các chúng sinh còn lại đều chịu cảnh tái sanh diễn ra như một dòng chảy tương tục ở trong vòng luân hồi. Hết thảy những gì xảy ra cho chúng sinh trong các cảnh giới lưu chuyển tái sanh, dù tốt hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, đều có nhân duyên, không phải ngẫu nhiên, tức do nghiệp hay hành động có chủ ý mà các chúng sinh ấy đã tạo ra, hoặc lúc này hoặc lúc khác, trong các đời sống khác nhau.
Nhìn vào bốn hạng người trên ta thấy rằng hạnh phúc hay khổ đau của con người không đứng yên một chỗ, không do ai ban cho cũng không do ai thưởng phạt, hoàn toàn do con người tự tạo ra trong chuỗi hiện hữu của mình. Hạng thứ nhất và hạng thứ hai do tạo các ác nghiệp trong quá khứ nên hiện tại phải nhận lấy kết quả không may mắn khi đến với thế giới này. Tuy nhiên, trong hai hạng người không may mắn ấy, hạng thứ nhất tiếp tục làm các ác nghiệp về thân, về lời, về ý nên sau đời hiện tại phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, gọi là sống trong bóng tối hướng đến bóng tối; trong khi hạng thứ hai quyết tâm không làm các ác hạnh về thân, về lời, về ý và do vậy sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới hay cõi đời này, gọi là sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng. Hạng thứ ba và thứ tư nhờ phước báo quá khứ nên được sinh ra làm người với thân phận may mắn. Tuy nhiên, chỉ có hạng người thứ tư tiếp tục giữ vững vận mệnh may mắn của mình sau khi thân hoại mạng chung, gọi là sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng, nhờ tuân thủ nếp sống bỏ ác làm thiện; trong khi hạng thứ ba phải chịu đọa sanh trong các cảnh giới bất hạnh khổ đau, gọi là sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối, vì tạo ác nghiệp trong đời hiện tại.
Như vậy, nhận thức cho thật đúng về nhân quả nghiệp báo giúp cho chúng ta có đủ sáng suốt và tỉnh táo trong cách nhận định và quyết định về đời sống hiện tại và tương lai của mình. “Đã mang lấy nghiệp vào thân” thì hãy bình tâm đón nhận cuộc sống hiện tại để nỗ lực tái dựng đời sống của mình theo chiều hướng tốt đẹp gọi là chuyển nghiệp. Không nên vội vàng và thiếu kiên nhẫn trong phương pháp chuyển nghiệp khiến cho sự nỗ lực thành ra không chính đáng và không đưa đến kết quả lợi lạc. Phải kiên tâm thay đổi lối sống của mình một cách chân chánh - suy nghĩ chân chánh, nói năng chân chánh, hành động chân chánh - thì kết quả mới an toàn và chắc chắn. Vì mọi cách thái vội vàng và thiếu nhẫn nại trong nỗ lực tạo dựng hạnh phúc sẽ không đưa đến kết quả tốt đẹp.
Trong đời sống hàng ngày, con người thường suy nghĩ nông cạn, làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, ít khi xét đến động cơ và hậu quả lâu dài liên quan đến những việc mình làm. Đó là lý do khiến cho tham-sân-si, các bất thiện nghiệp có cơ hội dấy khởi và chi phối đời sống của con người; kết quả là lợi ích mà người ta thu được chẳng bao nhiêu so với hậu quả tổn hại to lớn mà con người phải gánh chịu do lối sống thiếu cẩn trọng của mình. Đạo Phật nói đến chuyển nghiệp, cốt yếu khuyên nhắc mọi người cân nhắc thận trọng về động cơ (cetanà: ý định tạo tác) dẫn đến các hành vi (kamma: hành vi tạo tác), xem xét chúng có chân chánh hay không để mà điều chỉnh, uốn nắn, khiến cho các hoạt động thân, khẩu, ý trở nên trong sáng, chân chánh và hiền thiện. Đáng chú ý hơn trong chủ trương chuyển nghiệp của đạo Phật, đó là sự sống của con người không chỉ gói gọn trong một trăm năm hiện diện trên cõi đời mà còn tiếp tục diễn ra trong các cảnh giới khác, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc hạnh phúc hoặc bất hạnh, tùy thuộc vào hạnh nghiệp hay thái độ tâm thức của mỗi người thể hiện trong đời này. Chính vì vậy mà con người cần chú ý nhiều đến khả năng tịnh hóa các nghiệp thân, khẩu, ý; xem đó là hướng phát triển lâu dài cho đời sống tương lai của mình; không nên chỉ dốc tâm tìm kiếm sự thỏa mãn các ham muốn trong cuộc đời này mà bất chấp hậu quả tai hại của các ác nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những lời tuyên bố về nhân quả nghiệp báo nhằm gợi mở cho chúng sinh con đường rời xa các cảnh giới đọa sanh khổ đau, hướng đến thiện tái sanh trong các cảnh giới an lành thuộc phạm vi sanh tử luân hồi, Đức Phật còn nói đến một loại nghiệp khác có năng lực đoạn tận, làm cho tiêu trừ các nghiệp hữu lậu, đưa đến giải thoát khổ đau, đoạn tận tái sanh, chấm dứt sanh tử luân hồi, gọi là nghiệp hay ý chí (cetanà) đoạn tận các nghiệp (10).
Ngài xác nhận:
“Này Punna, có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn?
Này Punna, có nghiệp đen (đưa đến) quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng (đưa đến) quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng (đưa đến) quả báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng (đưa đến) quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna, có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình. Do vậy, này Punna, Ta nói: ‘Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)’. Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen.
Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không có tổn hại, khẩu hành không có tổn hại, ý hành không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không có tổn hại. Vì được sanh vào thế giới không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên). Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: ‘Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)’. Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng.
Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng đen đưa đến quả báo trắng đen? Ở đây, này Punna, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, ý hành có tổn hại và không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, có lạc thọ và khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: ‘Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)’. Như vậy này Punna, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí (cetanà: tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
Này Punna, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết” (11).
Đáng chú ý rằng trong bốn loại nghiệp được nói ở trên, ba loại đầu thuộc hữu lậu, đưa đến tái sanh, còn nằm trong vòng nhân quả luân hồi; loại thứ tư thuộc chánh kiến vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi (12), hướng đến đoạn tận các lậu hoặc, giải thoát khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi. Đây chỉ cho sự sanh khởi và vận hành của tâm giác ngộ, thấy rõ bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo đi kèm với sự quyết tâm đoạn tận tham-sân-si, gốc rễ của khổ đau, gọi là ý chí (cetanà) đoạn trừ các nghiệp, khiến chấm dứt tái sanh. Đó là sự sanh khởi của Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Cháng mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định hướng đến đến Chánh trí và Chánh giải thoát. Nói cách khác, đó là ý chí vượt thoát khổ đau của một người đã nhận thức rõ lý sanh diệt của các pháp (hữu vi), thấy rõ tính chất vô thường, khổ, vô ngã của tất cả các hành (các pháp hữu vi, chịu khổ đau bởi quy luật sanh và diệt) (13), không còn ham thích hiện hữu, thấy sợ hãi đối với luân hồi, quyết tâm hành sâu giáo pháp giác ngộ của Phật nhằm dứt trừ các duyên (vô minh, ái, thủ...) khiến khổ đau không còn được tạo ra, không còn tiếp tục tái sanh trong các cảnh giới luân hồi, gọi là “nghiệp đưa đến đoạn tận các nghiệp”.
Tóm lại, với sự nhấn mạnh về ý chí (nghiệp) và trí tuệ, đạo Phật giải thoát con người khỏi các uy quyền trói buộc của đầu óc mê muội tưởng tượng, đặt con người vào vị trí chủ nhân của đời mình. Hạnh phúc hay khổ đau của con người là hoàn toàn do con người quyết định, do chính lối sống của mỗi người tạo ra. Đó là luật nhân quả nghiệp báo được nói đến trong đạo Phật; theo đó, nếu con người sống với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác thì khổ não sẽ theo sau lưng người ấy, như cỗ xe lăn theo vết chân con bò kéo; trái lại, nếu con người sống với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện thì an lạc sẽ dõi theo sau, như bóng không rời hình.
Tuy nhiên đạo Phật cũng chỉ ra rằng, dù bị chi phối bởi nhân quả nghiệp báo, con người có thể chuyển hóa lối sống của mình để rời xa phiền não khổ đau và thiết lập hạnh phúc an lạc theo tiêu chí nỗ lực bỏ ác làm lành, gọi là chuyển nghiệp. Kinh Pháp Cú nhấn mạnh: “Ai dùng các hạnh lành làm xóa mờ nghiệp ác, người ấy chói sáng cõi đời này, như trăng thoát mây che” (14). Như vậy, con người hoàn toàn có cơ hội để cải thiện chính mình, cũng có nghĩa là cải thiện phẩm chất đời sống của mình trong quy trình luân hồi.
Nhưng quan trọng hơn cả là đạo Phật còn giới thiệu cho con người con đường thoát ly vĩnh viễn các hệ lụy khổ đau của nhân quả luân hồi. Đó là khéo tác ý (yoniso-manasikàra) về bản chất biến hoại, khổ đau, bất an của mọi sự kiện hiện hữu nhằm nuôi dưỡng ý chí vượt thoát khổ đau sanh tử luân hồi, gọi là nghiệp đưa đến đoạn tận các nghiệp. Đây hẳn là con đường trí tuệ mà Đức Phật đã mở ra cho thế giới loài người, cho những ai hiểu rõ sự luẩn quẩn khổ đau của chuỗi luân hồi tái sanh, thấy rõ sự vô ích của những tháng ngày ôm ấp hy vọng để mà thất vọng, nhàm chán những cảnh vui buồn giả tạm, ngán ngẩm cảm giác tự ru mình trong thế giới mộng huyễn, quyết tâm dứt bỏ các duyên (vô minh, tham ái, chấp thủ) tạo ra mắt xích luẩn quẩn khổ đau, thoát khỏi luân hồi, đạt đến thức tỉnh, không còn cảnh “nằm mơ xem kịch”.
Chú thích:
1. Kinh Hạnh con chó, Kinh Hiền ngu, Trung Bộ.
2. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung Bộ.
3. Đại kinh Sư tử hống, Trung Bộ.
4. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung Bộ.
5. Kinh Pháp Cú, kệ số 1-2.
6. Kinh Chánh tri kiến, Trung Bộ.
7. Kinh Chánh tri kiến, Trung Bộ.
8. Kinh Không có thể nghĩ được, Tăng Chi Bộ.
9. Kinh Người, Tương Ưng Bộ; Kinh Tối tăm, Tăng Chi Bộ.
10. Kinh Cẩu hành giả, Trung Bộ.
11. Kinh Hạnh con chó, Trung Bộ.
12. Đại kinh Bốn mươi, Trung Bộ.
13. Kinh Pháp Cú, kệ số 277-278; Kinh Xuất hiện, Tăng Chi Bộ.
14. Kinh Pháp Cú, kệ số 173.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tránh né cái ác
Phật pháp và cuộc sốngĐức Phật nói cho chúng ta biết hết thảy mọi thứ trên cuộc đời đều do nhân duyên mà sinh khởi và cũng do nhân duyên mà đoạn diệt; tương tự như vậy, các phiền não khổ đau sở dĩ phát sinh là do duyên gần gũi với cái ác, với các đối tượng xấu ác hoặc do tiếp xúc với môi trường không thân thiện; và do vậy để ngăn tránh các phiền não khổ đau thì con người cần phải tránh xa cái ác, tránh xa các đối tượng xấu ác hoặc môi trường không lành mạnh.
Khi phố lên đèn
Phật pháp và cuộc sốngCó một chiều thôi bận bịu, ta lang thang xuống phố, ngồi ở một ghế đá vỉa hè hay mỗi quán cóc nào đó thân quen. Ta hãy gác lại những lo toan bề bộn, cất đi những lo lắng ưu tư, cứ để cho lòng mình miên man vô định, ta ngồi ngắm phố xá lên đèn...
Cõi bồng phiêu
Phật pháp và cuộc sốngNgười đi từ cõi bồng phiêu/ Cơ hồ bóng xiêu chiều xuống/ Núi rừng ru hời tiếng vượn/ U hoài chạy trốn hoang liêu.
Liệu pháp tâm linh mang lại lợi ích nhất cho em bé khi còn trong bụng mẹ
Phật pháp và cuộc sốngBất kỳ người làm mẹ nào cũng đều cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi biết mình đang mang trong mình một mầm sống. Bởi đứa con là kết tinh của tình cảm vợ chồng, là niềm hy vọng và ước mơ của đấng sinh thành về một em bé khỏe mạnh, ngoan ngoãn và thành đạt sau này.
Xem thêm














