Dòng sông tâm thức (II)
Tự thuật về cảm tưởng thực nghiệm tu tập xuyên suốt đạo Phật gồm nhiều bài viết từ Nguyên thủy đến Đại thừa như một dòng sông tâm thức cũng như dòng đời tu tập của ta vậy. Pháp môn tu tập là một dòng sông tâm thức Phật pháp.
Phật dạy có nhiều nguyên lý triết học của đạo Phật
Nguyên lý duyên khởi, nguyên lý tất định gọi là định mệnh và bất định là không có định mệnh, nguyên lý tương dung, nguyên lý như thật như thị, nguyên lý viên dung tương thông không ngăn ngại, nguyên lý giải thoát cứu cánh. Tất cả 6 nguyên lý nầy đưa ta hiểu trọn đạo Phật trong 49 năm người giảng dạy.
Duyên khởi là tất cả vạn vật đều do duyên mà thành hình hiện hữu cái này có dựa vào cái kia có, tương tự người nầy đứng lên dựa vào người kia đứng lên, cái này diệt mất đi dựa vào cái kia diệt mất.
Nguyên lý tất định và bất định là Phật dạy không có một định mệnh nào cả cho chúng ta mà tất cả là một chuỗi dài của bất định.Tức là không có một thượng đế nào đặt để đời sống ta cố định, theo một định mệnh nào cả nên không có một giai cấp xã hội. Mọi người bình đẵng sanh ra. Nguyên lý bất tất định là tất cả do tâm tạo ra cuộc sống là một vòng tròn kín không có khởi đầu và cũng không có chấm dứt, tương tự như định luật mass and energy conversion là bảo toàn năng lượng của Einstein. Đó là khối lượng mass chuyển thành energy năng lượng rồi chuyển ngược lại năng lượng tiêu diệt thành khối lượng.
Như vậy chúng ta hiểu được sự sống của mình là không có tự tính, tự nó sinh ra không có quyết định tính, tức là có định mệnh đặt sẵn mà tất cả là không, không có tự tướng, tất cả đều giả tạm do duyên sanh vô ngã và vô thường. Nguyên lý tương dung là sự hỗ tương lẫn nhau tương nhiếp lẫn nhau. Nguyên lý nầy nói lên chúng ta sống dựa vào nhau mà hiện hữu nên có sự đồng nhất tĩnh. Tuy khác nhau như sấp và ngửa nhưng chỉ là một đồng tiền, một bàn tay. Về mặt hình thức chúng khác nhau nhưng về mặt bản chất chúng chỉ là một. Nhìn vào thể cách thì nó là động tức là chuyển đổi không ngừng, nhưng hiểu sâu về bản thể thì nó là tĩnh như bản chất của sóng là nước biển vậy. Nguyên lý như thật như thị là một nguyên lý đặc sắc của Phật dạy. Trạng thái chân thật Phật đây là trạng thái không có một điều kiện riêng biệt nào cả. Đây là lý thuyết về sự biến dịch triệt để nên gọi là vô thường. Chân lý là không duy vật cũng không duy tâm là trung quán, tức là phủ nhận tính hiện hữu để tìm bản chất của chúng nên gọi là tính không. Nguyên lý viên dung là rút từ kinh Hoa Nghiêm với lý và sự đối đãi, bao gồm sự pháp giới, lý pháp giới, lý sự pháp giới và sự sự pháp giới. Đó là sự viên dung hổ tương không gây ngăn ngại cho nhau, nằm trong nguyên lý pháp giới duyên khởi. Dựa vào nền tảng vô ngã mà lý sự viên dung không có một vật thể nào hiện hữu tự do chính nó hay hiện hữu cho cái khác. Nguyên lý cuối cùng là niết bàn giải thoát viên mãn. Niết bàn là ngọn lửa đã tắt có một trạng thái trong thời gian và không gian. Đạo Phật quan điểm về không gian thời gian là môi trường cho dục sắc và tâm hiện hữu cho sự dao động của sinh và tử.
Trở về Phật nguyên thủy chúng ta hiểu là các kinh do Ananda kể lại trong kết tập lần thứ 3 tức sau khi Phật nhập diệt. Kinh được bắt đầu bằng chữ: tôi nghe như vầy. Toàn bộ kinh là giải quyết trực tiếp vấn để diệt tham sân si, đức Phật đã có 16 lần im lặng sấm sét những câu hỏi về tính cách trừu tượng không đưa đến sự giải thoát như thế giới này từ đâu mà có? chết rồi đi về đâu? Thế giới bên kia là gì? Chúng ta nên nhớ là đạo Phật là xuất phát từ đạo Bà la Môn ở xứ Ấn Độ mà ra. Đức Phật làm cuộc cách mạng sửa lại lề lối không đúng của Bà la môn về giai cấp, định mệnh, có thượng đế tạo ra vạn vật. Như vậy các vấn để trừu tượng kể trên ở Bà la Môn giải thích, thì đức Phật không trả lời tức không có kinh ghi chép lại, nên xem như chấp nhận theo quan điểm của Bà la môn.
Vì thế các thủ tục của việc chết đám tang hay thế giới bên kia hoàn toàn theo Bà la Môn hay theo Trung Quốc khổng giáo Lão giáo. Kế đến theo lịch sử đạo Phật khi còn đang thế tục đức Phật đã cử người đi về miền nam Ấn Độ là đảo Sri lanka để phổ biến đạo Phật rồi truyền sang Miến Điện Thái Lan Campuchia Lào Vietnam, đó là đạo Phật Nguyên thuỷ. Đường phía nam nầy ít bị ảnh hưởng văn hóa của các quốc gia đó nên gần như không có thay đổi khác với Ấn Độ. Riêng về phần truyền theo phía bắc qua Nepal, Tây Tạng Mông cổ và đến Trung Hoa thì thay đổi rất nhiều do văn hóa của các quốc gia đó. Nhập vào các nước đó hòa nhập văn hóa của đạo Khổng giáo, Lão giáo, tạo thành Phật Đại thừa cũng từ nguyên thủy mà suy rộng ra hơn về triết lý và bản chất. Rồi để giải quyết đa số chúng sanh lo sinh kế vất vã sống đến cuối đời mới chú ý đến cái chết mà lo sợ, đạo Phật Đại thừa mới phát sinh Tịnh Độ tông để đi về một cõi Tịnh Độ mà tu tập theo Phật Di Đà, vì chỉ cần một niệm nam mô A Di Đà Phật, là có thể được dẫn độ về cõi Tịnh Độ thế gian để tu tập được nghe kinh Phật. Tông phái này rất đông người vì nó tương tự với các tôn giáo khác mang tâm từ bi (love) để tu hành và tín nguyện hạnh làm căn bản.
Như vậy dù ta theo Tịnh Độ tông ta cũng nên hiểu Nguyên thủy là lời Phật dạy căn bản để diệt tham sân si phiền não đau khổ của kiếp người. Nếu không hiểu được Nguyên thủy thì Phật thường bảo: nầy hành giả ông đã đi quá xa! Xa rời con đường đạo là giải thoát, dù chúng ta theo đuổi lối tu nào cũng cần phải biết tổng quan đạo Phật Nguyên thủy. Nguyên thủy là cốt lõi dẫn đầu của đạo Phật bao gồm Tứ diệu Đế 37 phẩm trợ đạo với 12 Nhân Duyên và Vi Diệu Pháp. Khi tu tập Phật Nguyên thủy hành giả cần trang bị cho mình một nguyên tắc là luôn luôn chánh niệm tĩnh giác rồi đến như lý tác ý và theo đúng thứ tự từng bước đi trật tự vững bền. Hỗ trợ điều đó hành giả cần thông suốt 5 uẩn, vô ngã tướng, 6 căn trần thức, thiền quán thiền chỉ, giới định tuệ, văn tư tu. Kế đến 37 phẩm trợ đào gồm có: 4 niệm xứ, 4 như ý túc, 4 chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 chánh đạo tổng cộng 37 phẩm. Vì áp dụng theo thứ tự từng bước tu tập nên đắc quả vị chứng đắc từng bước như: 1. Sơ quả Tu Đà Hoàn; 2. Nhị quả Tư Đà Hàm; 3. Tam quả A Na Hàm; 4. Tứ quả A La Hán. Sau đây là giải nghĩa của các tiêu chí trên.
Chánh niệm tĩnh giác: chánh là việc gì mang đến kết quả giải thoát và thanh tịnh tâm, ngược lại là tà. Chánh được hiểu thực tế là làm cái gì thì chỉ biết cái đó, chú tâm vào tính độc lập như thị của chúng, không để cái ngã cái tôi xen vào can thiệp theo cảm tính ưa thích của chính mình. Chánh là như thế là như thế, ngoài nó không có cái gì khác. Chánh được áp dụng Bát chánh đạo.Niệm là nhớ là ý niệm là cảm nhận. Tĩnh giác là sự biết đúng thật sự,biết rõ ràng biết chắc chắn mà ở trạng thái tĩnh không si mê động tâm. Chánh niệm tĩnh giác được hiểu rất kỹ là khi đi ăn trộm thì chú tâm ăn trộm cho khỏi bị lộ diện, nhưng nhờ tĩnh giác nên bỏ không đi ăn trộm mà làm điều thiện điều tốt. Chánh niệm phải đi đôi tĩnh giác là thế.Chánh niệm giết người là tập trung cao độ kế hoạch giết người, nhưng có tĩnh giác thì không đi giết người. Luôn chánh niệm tĩnh giác thì không còn cái ngã cái tôi trong mọi hành động. Nhờ chánh niệm tĩnh giác mà ta đạt được tuệ giác dễ dàng tức ngộ được đạo.
Như lý tác ý: như là làm theo, lý là chân lý, tác là tác động thực hành, ý là ý thức. Như lý tác ý là nương theo chân lý mà tạo nên hành động tư duy ý thức nghĩ suy phân tích tổng hợp. Có nghĩa là mọi ý thức phân tích suy tư của ta nương theo chân lý cái chân thật mà hành xử.
5 uẩn: uẩn là tập hợp các việc gì cùng một tính chất của cơ thể ta. Uẩn đuoc hiểu đơn giản là sắc thọ tưởng hành thức trong khi cấu tạo vật chất (material) cơ thể ta là đất nước gió lửa không kiến thức. Uẩn là cơ cấu mang nặng về tánh chất (characteristic). Sắc là cơ thể thân của ta (body) hình tượng mà ta có thể thấy sờ đụng chạm vào được. Uẩn sắc tương ứng khối lượng mass theo định luật của Einstein còn 4 uẩn còn lại là energy năng lượng.
a. Sắc uẩn (Rùpa-khandha): Là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là Địa (chất rắn), Thủy (chất lỏng), Hỏa (nhiệt độ), Phong (chất khí). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm. Tóm lại như Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm sắc gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là sắc uẩn" (Kinh Đại Kinh Mãn Nguyệt, Trung Bộ kinh III). Như vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn.
Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu thuẫn. Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các yếu tố sắc không phải là thân thể, như mặt trời, dòng sông, ruộng lúa, thời tiết, không khí... Quan điểm của Phật giáo về thân thể vật lý dựa trên cơ sở lý duyên sinh, nghĩa là trình bày rõ về mối tương hệ bất khả phân ly giữa yếu tố con người với yếu tố vũ trụ thiên nhiên gồm môi trường, hoàn cảnh... Đó là cái nhìn về con người một cách toàn diện.
Bản chất của sắc uẩn là vô thường, vô ngã và chuyển biến bất tận theo lý duyên sinh, vậy bản chất của chúng là không. Sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ. Như trong kinh Phật đã dạy, ai cho rằng sắc uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta (vô ngã) thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn.
Nhờ thấy rõ thân thể qua phân tích sắc uẩn đưa đến trí tuệ sâu sắc làm rơi rụng tâm lý tham ái thân thể, chặt đứt sợi dây trói buộc vào sắc uẩn.
b. Thọ uẩn (Vedanà-khandha): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.
Cảm giác khổ là một loại cảm giác khó chịu khi ta tiếp xúc với một đối tượng không thích ý, nó kèm theo một chuỗi tâm lý khó chịu, bất mãn, tránh xa... Ví dụ khi ta nhìn thấy một con vật dơ bẩn xấu xí, ta nảy sinh cảm giác ghê tởm không muốn nhìn. Cảm giác vui sướng là một loại cảm giác dễ chịu, thoải mái, phấn khởi khi ta tiếp xúc với một đối tượng thích ý, nó tạo cho ta niềm vui, sung sướng xích lại gần... Cảm giác trung tính không khổ không vui, nó không tạo cho ta cảm giác khó chịu hay dễ chịu, nó không tạo ra một lực hút hay lực đẩy nào. Ví dụ khi ta nhìn một dòng sông, không khởi lên khổ hay lạc mà chỉ là cảm giác thông thường.
Đức Phật dạy: "Này các thầy Tỳ kheo, phàm cảm thọ gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn". Như vậy, những loại cảm giác về thời gian, không gian, cảm giác sâu sắc bên trong tâm như thiền định chẳng hạn, hay cảm giác bên ngoài qua các giác quan, cảm giác cường độ mạnh hay yếu đều nằm trong thọ uẩn. Phân tích ta sẽ thấy có những cảm giác đến từ thân thể (sắc uẩn) như ăn uống khoái khẩu hay bị thương tích đau đớn; có những cảm giác đến từ tâm lý (tưởng, hành) như thiền định hay tưởng tượng; có những cảm giác đến từ tâm lý và vật lý như thưởng thức một bản nhạc hoặc ngắm một bức tranh, hoặc sự đau khổ do hoàn cảnh bất hạnh... Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.
c. Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha): Là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản nhạc tiền chiến...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng ký ức... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Tri giác là một trong những tác dụng của thức.
Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm tri giác gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn". Như vậy, những tri giác về các đối tượng bên ngoài, bên trong, thuộc thời gian, không gian, đơn giản hay phức tạp đều gồm trong tưởng uẩn. Tri giác là tri giác về cái gì, không thể có một tri giác thuần chủ thể; vì vậy, tưởng bao gồm mọi nhận thức về thế giới vật lý, tâm lý. Tuy nhiên, thế giới vật lý, tâm lý ấy được ký hiệu hóa, khái niệm hóa, nên giữa tri giác và thực tại luôn có một khoảng cách.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua như khi thấy đóa hoa hồng biết đây là đóa hoa hồng, cái tri giác về đóa hoa hồng đã có sẵn (chủng tử) nên cái kinh nghiệm đã cho biết đó là đóa hoa hồng. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động.
Tri giác tồn tại có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
d. Hành uẩn (Sankhàra-khandha): Hành là từ gọi cho mọi hiện tượng sinh diệt như trong câu kệ “Chư hành vô thường”. Hành uẩn ở đây có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở. Duy thức học chia thành 51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì chúng (thọ và tưởng) không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp.
Hành uẩn cũng có sáu loại do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng, hành còn gọi là Tư. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thinh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư. Đây gọi là hành” (Tương Ưng Bộ kinh III). Tư là động lực quyết định, là ý chí, ý muốn; tâm sở này tạo động lực dẫn dắt tâm ý theo xu hướng thiện, bất thiện. Một số tâm sở có tác động mạnh mẽ để hình thành nghiệp hay hành như: dục, xác định, niềm tin, tinh tấn, tham lam, sân hận, ngu si, kiêu mạn, tà kiến... Hành uẩn bao gồm mọi hiện tượng tâm lý, Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm hành gì thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là hành uẩn”. Tất cả những hiện tượng tâm lý, sinh lý hiện tại là kết quả của hành trong quá khứ, nghĩa là hành tạo nên một năng lực tiềm ẩn điều khiển thúc đẩy ở trong chiều sâu tâm thức mà trong kinh thường gọi là "phiền não tùy miên”, hay trong luận gọi là "câu sanh phiền não”. Chúng làm nền tảng và lực đẩy để hình thành một năng lực hành mới, dẫn dắt con người đi tới tương lai. Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận.
e. Thức uẩn (Vinnãna-khandha): Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương; thọ, tưởng, hành là Tâm sở.
Thức uẩn là nền tảng của các hiện tượng tâm lý như biển là nền tảng của các ngọn sóng nhấp nhô, vì vậy thức còn gọi là yếu tố căn bản của tâm lý, thức dung chứa các hiện tượng tâm lý và căn cứ để các hiện tượng tâm lý phát khởi. Duy thức học triển khai lý thuyết tám thức, ngoài sáu thức trên còn phát triển thêm hai thức nữa là Mạt na thức (Manas) và A lại da thức (Alaya), mục đích là khai thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là căn cứ của ý thức đồng thời nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. A lại da thức là khả năng duy trì và bảo tồn những chủng tử, những kinh nghiệm; chúng được tích lũy, lưu trữ ở trong thức (A lại da). Mặt khác, A lại da làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của thức (A lại da) mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu tố.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại độc lập, chúng hiện hữu do duyên sinh, cụ thể là do sắc, thọ, tưởng, hành; mối quan hệ giữa chúng với nhau là bất khả phân ly. Đức Phật dạy: «Thức tồn tại nhờ sắc làm điều kiện, làm đối tượng, sắc làm nơi nương tựa... Thức phát triển hưng thịnh nhờ sắc. Thức tồn tại nhờ thọ... nhờ tưởng... nhờ hành... (như trên). Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói một điều không thực” (Kinh Tương Ưng III). Như vậy, thức là một hợp thể của bốn uẩn kia, vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Thức vô thường lưu chuyển, vô ngã và do duyên sinh.
Tóm lại, con người dưới sự phân tích năm nhóm thì thân thể thuộc một nhóm - nhóm vật lý, sinh lý; tâm lý thì chia thành bốn nhóm: cảm giác, tri giác, động lực hay ý chí và thức. Mỗi nhóm là một tập hợp của các yếu tố, đồng thời mỗi nhóm đều nương tựa vào nhóm kia mà tồn tại, nhóm này có trong nhóm kia và ngược lại. Nói khác, trong sắc có thọ, trong thọ có sắc, chúng nương vào nhau mà có mặt, suy rộng ra đều như vậy. Một cảm giác khổ sở nó bao gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức. Năm uẩn là các khía cạnh khác nhau của một thể thống nhất là con người. Thể thống nhất ấy mới nhìn qua tưởng như độc lập, bất biến được điều khiển bởi một chủ thể, nhưng thật ra chúng chỉ là một hợp thể vô ngã, vô thường và rất tạm bợ. Trong kinh có một thí dụ như cây chuối không có lõi, nó chỉ là một hợp thể của các bẹ chuối. Đó là bản chất của năm uẩn, đó cũng là mục tiêu của sự phân tích năm uẩn: thấy rõ bản chất của con người và vũ trụ mà con người đang sống, nhờ đó mà khai mở tuệ giác, đoạn diệt khổ đau.
Vô ngã tướng: Con là Ānanda được nghe bài kinh Vô Ngã Tướng từ Đức Thế Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, trước kia Đức Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại nơi đây, Đức Thế Tôn bèn gọi nhóm 5 Tỳ-khưu rằng:
– Này chư Tỳ-khưu.
Chư Tỳ-khưu đáp lời Đức Thế Tôn:
– Dạ, kính bạch Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Vô Ngã Tướng như sau:
Ngũ uẩn là vô ngã
a. Sắc uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta (ngã), thì sắc uẩn này không bị biến đổi, không bệnh hoạn; và các con có thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì sắc uẩn này là vô ngã, do đó, sắc uẩn này phải bị biến đổi, bệnh hoạn.Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
(sắc uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của mình).
b. Thọ uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thọ uẩn này là ta (ngã), thì thọ uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thọ uẩn này là vô ngã; do đo, thọ uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
(thọ uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
c. Tưởng uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai)
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu tưởng uẩn này là ta (ngã), thì tưởng uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì tưởng uẩn này là vô ngã, do đó, tưởng uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi được ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
(tưởng uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
d. Hành uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu hành uẩn này là ta (ngã), thì hành uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật bởi vì hành uẩn này là vô ngã, do đó, hành uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
(hành uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
e. Thức uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thức uẩn này là ta (ngã), thì thức uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thức uẩn này là vô ngã, do đó, thức uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
(thức uẩn hoàn toàn tùy thuộc nhân duyên danh pháp, sắc pháp, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
Ngũ uẩn có ba trạng thái chung
1. Sắc uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Sắc uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào là vô thường, vậy sắc uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên sắc uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi sắc uẩn ấy rằng:
Sắc uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Sắc uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ sắc uẩn ấy như vậy.
2. Thọ uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thọ uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, vậy thọ uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thọ uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thọ uẩn ấy rằng:
Thọ uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái),
Thọ uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn),
Thọ uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thọ uẩn ấy như vậy.
3. Tưởng uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Tưởng uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, vậy tưởng uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên tưởng uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi tưởng uẩn ấy rằng:
Tưởng uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Tưởng uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ tưởng uẩn ấy như vậy.
4. Hành uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Hành uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, vậy hành uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên hành uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi hành uẩn ấy rằng:
Hành uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Hành uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Hành uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ hành uẩn ấy như vậy.
5. Thức uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thức uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, vậy thức uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thức uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thức uẩn ấy rằng:
Thức uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Thức uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Thức uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thức uẩn ấy như vậy.
6 căn trần thức: Thế giới biểu hiện sự vận hành hỗ tương giữa lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý). Lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp). Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) gọi là 18 giới.
Căn (sinh lý) → Trần (vật lý) → Thức (tâm lý)
↓ ↓ ↓
Nhãn sắc nhãn thức
Nhĩ thanh nhĩ thức
Tỷ hương tỷ thức
Thiệt vị thiệt thức
Thân xúc thân thức
Ý pháp ý thức
Thiền quán thiền chỉ:
Thiền chỉ (samatha):
Chỉ là dừng lại. Tịnh chỉ là dừng lại sự tán loạn, sự quên lãng, vọng niệm, chấm dứt sự đuổi bắt của tâm đến các đối tượng của trần cảnh. Thiền chỉ là trạng thái tâm chuyên chú vào một cảnh, một đối tượng, khiến cho mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, là cách buộc chặt tâm ý vào một pháp làm cho tâm ý chuyên nhất đưa đến hỷ lạc và nhất tâm.Thiền chỉ là sự an tĩnh, tĩnh lặng của tâm, sự chấm dứt của tâm hành (sankhāra), giải quyết các câu hỏi pháp lý (adhikaraṇa). Chỉ có nghĩa là dừng sự phân tâm, quên lãng, lang thang, chấm dứt sự theo đuổi của tâm đến sáu đối tượng tương ứng (viṣaya). Thiền chỉ là tập trung làm dịu các trạng thái tâm đối lập như dục vọng (kāmacchanda).... Thiền định (samādhi) loại bỏ những cảm xúc và căng thẳng tà ác được gọi là thiền chỉ (samatha). Trong các bản văn, ý nghĩa của samatha được giải thích là: ‘Paccanīkadhamme same-tīti samatho’, có nghĩa là pháp đã thanh lọc và loại bỏ được pháp đối nghịch được gọi là samatha .
Lại nữa, ‘samatha’ có nghĩa là tĩnh lặng, đó là trạng thái tập trung tâm ý, không còn lay động, tịnh và yên bình của tâm trí. Nó được gọi là thiền chỉ bởi vì nó làm lắng dịu xuống năm triền cái. Khi tâm được chuyên chú tập trung sâu vào các đối tượng của thiền định, tất cả những triền cái như tham dục, sân hận, thùy miên, trạo hối và hoài nghi vắng mặt từ trong nội tâm mà được hấp thụ trong các đối tượng thiền. Khi tâm được tịnh hóa từ tất cả các chướng ngại này, hành giả cảm thấy bình tĩnh, thanh bình, hạnh phúc và bình yên. Các kết quả của thiền samatha đó là một mức độ hạnh phúc thông qua việc đạt được sự nhất tâm, định (samadhi) như định cận hành (upacara) hay định an chỉ (appana). Sự nhất tâm gọi là thiền, nhưng nó không cho phép một hành giả hiểu một cách đúng đắn rằng cơ thể và các hiện tượng tinh thần là như thật .
Thiền chỉ liên quan trực tiếp đến sự an định tâm trí của hành giả về một đối tượng thiền thích hợp, nhằm ngăn chặn sự phóng túng và vọng tưởng trong tâm. Khi tâm trí tập trung sẽ phát sinh niềm an lạc tinh tế, sự thú vị bởi chấm dứt các dục và các bất thiện pháp. Samatha là một công cụ mạnh mẽ để thực hành thiền minh sát có hiệu quả. Bất cứ ai đạt được thiền chỉ, tâm trí của họ trở nên vắng lặng, giống như một hồ nước hoàn toàn yên lặng trong suốt vô ngần không có một gợn sóng lăn tăn làm khuấy động mặt hồ.
Thiền quán (Vipassanā):
Thuật ngữ Pāli, Vipassanā là một sự kết hợp của hai từ: Vi + passana. Vi nghĩa sự khác nhau và passana dịch là hiểu đúng hay chánh niệm (sati) tỉnh giác về thân và tâm. Thuật ngữ Vipassanā cũng được hiểu là ‘sự thấu hiểu’, nghĩa là cái nhìn sâu vào ba đặc tính phổ quát của sự tồn tại (tam pháp ấn): vô thường, khổ và vô ngã. Nói cách khác, thực hành pháp môn thiền này được gọi là Thiền Minh sát, bắt nguồn từ ý Pāli có nghĩa là tuệ minh sát.
Om Prakash Pathak giải thích rằng, Vi là tiền tố có nghĩa là “tiết lộ” và passanā có nghĩa là “nhìn, quan sát, nhìn vào bên trong, cái nhìn sâu sắc, trực giác…”. Nó có nghĩa là để nhìn thấy mọi thứ như chúng đang là, và để quan sát về bản chất thật của sự vật hiện tượng. Nó đi sâu vào trong bản chất, một kỹ thuật quan sát, quan sát thật sự, khám phá bản thân. Theo Bimalendra Kumar, Passanā có nghĩa là nhìn bằng đôi mắt mở. Vipassanā có nghĩa là xem xét theo cách đặc biệt, tức là quan sát mọi sự vật như thật, không phải như chúng xuất hiện. Nói cách khác, Vipassanā là một kỹ thuật tự quan sát và tu luyện những tiềm năng đó để hoàn thiện và phát triển các giới luật. Kỹ thuật này cũng được biết như là thiền định của chánh niệm hoặc nhận thức về cái nhìn sâu sắc. Theo Phra Athikan Somsak Sorado, vipassanā là sự kết hợp của chữ Vi và Passana. Vi có nghĩa là rõ ràng, trung thực, tuyệt vời. Passana có nghĩa là nhìn thấy, nhận thức trực tiếp và chánh tri kiến (trí tuệ). Vì vậy, ý nghĩa của vipassanā được hiểu như sau:
1. Nhìn thấy rõ ràng với trí tuệ về sắc và tâm (rūpanama), và về Chân lý Cao thượng Tứ diệu đế (Ariyasacca);
2. Minh sát rõ về Tam pháp ấn: vô thường, khổ và vô ngã (Tilakkhana), và Duyên khởi (Paticcasamuppada);
3. Nhìn thấy rõ những biểu hiện của các tâm hành, đều bất thường hoặc lạ thường (thấy trong khi hành thiền).
Có rất nhiều cách giải nghĩa từ vipassanā, tuy nhiên, bất cứ lời giải thích nào cũng không thể vượt quá ý nghĩa vipassanā là tuệ minh sát rõ ràng trực quan đến những hiện tượng như sắc và tâm khi chúng xuất hiện và biến mất. Nhìn thấy chúng một cách như thật trong chính nó về ba đặc điểm: vô thường, khổ và vô ngã. Vipassanā là con đường dẫn đến sự thành tựu Niết-bàn, giải thoát đích thực. Trong thực hành vipassanā, cái nhìn sâu sắc phát sinh qua một quan sát thiền định trực tiếp về sự vận hành của thân và tâm. Định (samādhi) sự tập trung tâm trí làm hữu ích cho việc thực hành vipassanā, vì chúng đưa đến sự nhất tâm, dễ dàng trong quán chiếu. Thiền quán là đường lối tự chuyển hóa bằng tự quan sát. Nó chú trọng đến sự tương quan mật thiết giữa tâm và thân, là điều có thể cảm nghiệm được trực tiếp bằng cách chú tâm đến những cảm giác thực thụ trên thân, nó luôn luôn liên hệ và chi phối tâm. Căn cứ vào sự quan sát này, và hành trình tự khám phá đi vào gốc rễ chung của tâm và thân để xóa bỏ những bất tịnh tinh thần, đưa đến một tâm quân bình tràn đầy tình thương và lòng từ bi.
Mục đích của thiền quán là đạt được sự chấm dứt của đau khổ thông qua sự hiểu biết đúng về sự vận hành của thân và tâm đúng như bản chất thật của nó. Đối với điều này, chúng ta cần một mức độ tập trung. Sự tập trung tâm ý này có thể đạt được qua chánh niệm liên tục và không gián đoạn về sự giác niệm thân thể và các tâm hành.
Như vậy, Vipassanā có nghĩa là “nhìn thấy theo những cách khác nhau” và khi áp dụng cho thiền, nó đề cập đến việc nhìn thấy tất cả các đối tượng hoặc hiện tượng vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Nguyên lý thiền Vipassanā là quan sát, sự vận hành, hay sự biểu hiện của thân và tâm trong giờ phút hiện tại, để kịp thời điều chỉnh, chuyển hóa là làm lắng dịu chúng. Như vậy, tập trung không phải là cố định trên một đối tượng duy nhất mà là tập quán thời gian (khanika samadhi) phát sanh khi tâm thoát khỏi những chướng ngại của các triền cái. Ở giai đoạn này, tâm trí có thể ghi nhận bất cứ vật gì phát sinh chủ yếu, do đó tiết lộ bản chất thật của chúng (yathabhuta).
Đó là một cách tự chuyển đổi thông qua việc tự quan sát. Nó tập trung vào mối tương quan sâu sắc giữa thân và tâm. Nó giúp để trải nghiệm trực tiếp bằng sự chú ý kỹ thuật đối với những cảm giác vật chất hình thành nên cuộc sống của cơ thể và liên tục kết nối với các điều kiện cuộc sống. Chính hành trình khám phá dựa trên tự khám phá này đến tận gốc rễ của tâm và thân mà giải thể sự ô uế, dẫn đến một tâm cân bằng đầy tình thương và từ bi.
Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga) đưa ra liên kết vipassanā với passanā, có nghĩa là nó vượt qua nhận thức/ ký ức/ công nhận và vipassanā là ý thức/ tỉnh giác, và tiến tới giải thoát cuối cùng. Sự phát triển của thiền passanā nhằm đoạn tận các lậu hoặc (những bất tịnh tinh thần), mang lại niềm vui cho chúng ta trên con đường cao thượng, và sự giải thoát cuối cùng từ mọi khổ đau, đạt đến Niết-bàn. Visuddhimagga lại cho rằng passanā được tu luyện thông qua sự hiểu biết các pháp hay những khía cạnh cơ bản của sự tồn tại. Chúng bao gồm, ví dụ, danh (nāma) tâm: ý thức về cái gì đó, và sắc (rūpa) thân thể vật lý, các đối tượng vật chất của ý thức), Ngũ uẩn (pañcakkhandha), Thập nhị xứ, Thập bát giới, Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên13. Như vậy, chúng ta sẽ thấy đây là những đối tượng thiền quán trong phương pháp thiền Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna), thiền chánh niệm hơi thở, quán niệm pháp chết như đề cập trong Kinh tạng.
Tóm lại, thiền chỉ và thiền quán là hai phương pháp hành thiền vô cùng quan trọng của Phật giáo. Đây là con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh, an lạc và giải thoát. Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật giải thích rõ ràng về bản chất và chức năng của thiền chỉ và thiền quán như sau: “Để thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, hai pháp cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Để thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, hai pháp này cần phải tu tập. Để biến tri tham, này các Tỷ-kheo,… để biến tận, để đoạn tận, để trừ diệt, để biến diệt, để ly tham, để đoạn diệt, để xả bỏ, để từ bỏ tham, hai pháp này cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán… Để thắng tri… để biến tri sân, si, phẫn nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố, xan tham, man trá, phản trắc, cứng đầu, cuồng nhiệt, mạn, quá mạn, kiêu căng, phóng dật,… để biến tận, để đoạn tận, để trừ diệt, để biến diệt, để ly tham, để đoạn diệt, để xả bỏ, để từ bỏ sân… phóng dật, hai pháp này cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán… hai pháp này cần phải tu tập”.
Giới định tuệ theo Bát chánh Đạo: Giới là giới luật giúp tu sửa bản thân đạo đức là khởi điểm đi đến định rồi đi đến tuệ giác. Giới là bao gồm chánh ngữ chánh nghiệp chánh mạng, Định là chánh tỉnh tấn chánh niệm và chánh định, còn Tuệ là chánh kiến chánh tư duy. Giữ giới là giữ chánh ngữ, nói lời ái ngữ, nói thiện pháp, nói lời chân thật và chánh pháp. Ngược lại thì không nên nói. Chánh nghiệp là kiểm soát thân khẩu ý để tránh tạo nghiệp xấu. Chánh mạng là hành nghề nuôi mạng mình bằng nghề tốt không phạm giới luật của đạo. Những nghề giết sinh vật, bán vũ khí, bán rượu chất a phiến, nghề nghiệp hại người. Giới luật là giữ ngữ nghiệp mạng làm sao không gây phiền não cho mình và cho người. Kế tiếp là Định, tức là chánh tinh tấn chánh niệm và chánh định. Chánh tinh tấn là siêng năng đoạn diệt tham sân si. Chánh niệm là quán chiếu đúng thân thọ tâm pháp , quán thân trên thân quán thọ trên thọ quán tâm trên tâm quán pháp trên pháp.Quán chiếu này là Tứ niệm xứ. Chánh định là đạt được 5 định qua 4 thiền. 4 thiền là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền của Như lai thiền. Chánh định là 5 định của Phật là không vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, thức vô biên xứ định, phi tưởng phi phi tưởng xứ định, diệt thọ tưởng định là xã ly đi đến định cuối cùng. Tuệ giác là điểm đến cuối cùng tức là chánh kiến chánh tư duy. Chánh kiến là biết pháp đúng nhất, biết các pháp Phật dạy đi đến giải thoát diệt tham sân si. Từ đó có chánh tư duy là ly tham sân si, lìa bỏ ác kiến. Tuệ giác được nói nhiều nhất khi đến Đại thừa. Định đi đến tuệ do định được rồi thì quán chiếu sinh tuệ giác rồi tuệ giác cũng cố định tăng thêm và định tăng lên thì tuệ phát sinh nhiều hơn. Định tuệ bổ xung nhau như một vòng tròn kín gọi là định tuệ nhất như.
Văn tư tu: là nghe giảng pháp, tư duy xét đoán và hiểu rõ hiểu thật sự và xét có lý thì mới áp dụng tu tập. Không nghe pháp mà tin tưởng bởi cảm tính thiếu xét đoán vì lời Phật dạy không có văn bảng chỉ là lời kể lại của Ananda. Truyền qua nhiều quốc gia và thời gian nên sửa đổi sai lạc rất nhiều. Cần xét đoán hợp lý và có kết quả giải thoát cắt đứt phiền não thì mới nghe theo mà tu tập. Phật dạy nghe ta giảng cần phải tư duy xét đoán thấy đúng mới theo mà tu tập. Đúng là đi đến chánh pháp đến giải thoát thanh tịnh hóa tâm diệt trừ phiền não, diệt ngã tham sân si.
37 phẩm trợ Đạo đế:
- Tứ niệm xứ nằm trong Như Lai Thiền kết hợp: Chuẩn bị ngồi thiền, tận diệt triền cái như hôn trầm thụy miên là ngủ gật mê mờ uể oải dã dượi, trạo cử hối quá là tâm dao động liên tục nghĩ lung tung. Sân hận không hài lòng, Tham là tham ái tham dục tham tu tập. Nghi ngờ là tâm do dự không quyết chí. Tứ niệm xứ là thiền quán thân thọ tâm pháp còn Như lai thiền là sơ thiền là ly dục, nhị thiền là bỏ tầm tứ, tam thiền bỏ hỷ lạc, tứ thiền là xã ly đoạn diệt hết cả. Kết hợp cả hai thiền đều do Phật dạy.
Bước 1: sơ thiền: ly dục ly ác pháp có trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm tứ. Tầm là hướng tâm theo bám đối tượng. Tứ là buộc tâm vào đối tượng đã theo bám đó. Tầm diệt bỏ được hôn trầm. Tứ diệt bỏ được nghi ngờ do dự. Hỷ là vui vẻ của tâm. Lạc là vui vẻ của thân. Thở vô dài biết dài, thở ra dài biết dài. Thở vô ngắn biết ngắn, thở ra ngắn biết ngắn. Cảm giác toàn thân thở vô, cảm giác toàn thân thở ra. An tịnh thân hành thở vô thở ra. Quán bước 1 là quán thân bất tịnh, tịnh đây có nghĩa là hoàn hảo tươi đẹp. Quán thân mình gồm ngoại thân và nội thân. Thân đi đứng nằm ngồi thấy rõ biết. Thân sống chết của 4 đại không đẹp đẽ không hoàn hảo luôn luôn thay đổi. Quán thân trên thân khi bịnh rồi chết tan rã có 9 giai đoạn như trương sình , màu xanh xám, tan rã, máu thịt rơi rớt ra, da thịt rục rã, chim thú mổ ăn,thân thể tan nát chia rời,còn xương trắng, đốt thành tro bụi.
Bước 2: Nhị thiền: Diệt bỏ tầm tứ đạt được hỷ lạc sanh ra tĩnh tâm.
Cảm giác hỷ thọ thở vô và ra, cảm giác lạc thọ thở vô và ra. Cảm giác tâm hành thở vô và ra, an tịnh tâm hành thở vô và ra. Quán Thọ khổ đau, thọ đây là nhận lãnh chịu đựng thọ mạng. Nhận chịu sự đau khổ của kiếp người được sanh ra. Khổ đây có nhiều khổ như bịnh già chết, chia lìa người thân, cầu mong không đạt thì khổ. Tham càng nhiều thì khổ càng cao.
Bước 3: Tam thiền: ly hỷ trú xã chánh niệm tĩnh giác, xã niệm lạc trú. Lìa bỏ cảm giác về tâm gồm có tâm hân hoan tôi thở vô và ra, tâm định tĩnh thở vô và ra, tâm giải thoát thở vô và ra. Quán Tâm vô thường thay đổi liên tục vì nó là ý thức là kiến thức là học vấn thay đổi theo thời gian nên gọi là vọng tâm. Tâm tánh luôn luôn thay đổi không cố định.
Bước 4: Tứ thiền: Xã lạc xã khổ diệt hết hỷ ưu cảm thọ không khổ không lạc xã niệm thanh tịnh. Quán Pháp vô ngã. Quán vô thường, thở vô và ra rồi quán lìa bỏ tham đoạn tuyệt và từ bỏ . Quán các pháp không có tự tánh huyễn hoặc không có thật không có tự nó nó hiện hữu mà phải do duyên sanh ra. Nhận được pháp không có tự tướng thì sẽ bớt khổ khi hiểu lý duyên sanh nên ngoại cảnh không làm ta đau khổ. Pháp vô ngã là lối tu rốt ráo nhất.
Tóm lại thiền Như lai và thiền Tứ niệm xứ đều do Phật dạy kết hợp với nguyên tắc 16 bước hơi thở vô và ra. Tứ niệm xứ là quán chiếu, Như lai thiền chú trọng chỉ định. Ngoài ra đức Phật còn có 5 định khác như không vô biên xứ định là nghĩ đến không gian vô biên cắt sai biệt với ngoại cảnh. Thức vô biên định là quán chiếu về thức nội tâm sai biệt trong thức. Vô sở hữu định là quán thấy không còn gì hết vật chất không còn gì hết. Phi tưởng phi phi tưởng xứ định là quán không thấy tưởng và cũng không còn tưởng gì hết đưa đến hết thảy là không. Cuối cùng là diệt thọ tưởng định là tiêu diệt tất cả không còn vướng mắc thọ cũng như tưởng. Thiền này nằm trong vô sắc giới nên Phật không dạy cho chúng ta theo gọi là thiền vô sắc.
- Kế tiếp là Thất giác chi: 7 phần tuệ giác gồm có Trạch pháp là lựa chọn pháp môn tu hành cho đúng. Tinh tấn là luôn luôn dũng tiến tu hành. Hoan hỷ là tâm vui phấn chí tu hành. Khinh an là nhẹ nhàng yên ổn thân tâm thanh tịnh. Niệm là ghi nhớ là Tứ niệm xứ đi đúng chánh pháp. Định là tâm chuyên chú vào pháp đã định. Xã là phần cuối cùng quan trọng khó nhất là buông xã không vướng bận xã ly thọ tưởng định là diệt hết mọi vướng mắc tâm thanh tịnh.
- Tứ như ý túc: là thiền định gồm có diệt dục, tinh tấn, nhất tâm, quán chiếu.
- Năm Căn gồm có: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Đưa đến 5 lực là tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và tuệ lực.
- Tứ chánh cần: Tinh tấn, ngăn ngừa, đứt đoạn, phát triển thiền, tiếp tục hành thiền.
*Vi Diệu Pháp hay Thắng pháp tạng là môn Tâm lý học Phật giáo Nguyên thủy bàn về Tâm. Tạng này rất trừu tượng và rất sâu rộng, chúng ta nên học tập riêng rẻ tu tập vì nó thuộc về tâm lý phân tâm học Phật giáo.
Kết luận:
Phật giáo Nguyên thủy là cốt cán của đạo Phật nơi đó đức Phật giảng trực tiếp giải quyết vấn để khổ tiêu diệt khổ và giải thoát sinh tử luân hồi. Phật bảo căn nhà lửa cháy tham sân si chúng con phải chạy ra khỏi nhưng các con tham dục vọng nhiều quá Phật dạy chấp thật diệt dục bằng hình thức chặt đứt như thế này gọi là Nguyên thủy. Nhưng còn lại những ai không tham dục mà lại tham danh thì Phật giảng rộng hơn là chấp giả, nên gọi là Đại thừa cũng từ cơ bản đó mà mở rộng ra hay triết lý thêm về bản chất luận. Riêng chúng sanh cả đời lo sinh kế cuối cùng lo sợ mệnh chung Phật chỉ dẫn bên tây phương có quốc độ Phật A di Đà Tịnh Độ cho chúng sanh về bên ấy nghe kinh Phật mà tu tập sau khi chết. Phật Nguyên thủy là khởi đầu cơ bản Phật dạy diệt tham sân si phiền não giải thoát sinh tử. Tuy gói gọn có mấy điều cốt yếu nhưng thực hành rất sâu xa và rất khó khăn, như phần thiền Tứ niệm xứ và Như Lai Thiền kết hợp là cả vấn đề thực hành lâu dài có khi cả đời người vẫn chưa xong. Quán thân trên thân, thọ trên thọ tâm trên tâm pháp trên pháp. Riêng quán tâm và quán pháp là hai quán rất khó khăn và sâu sắc. Trong phần Thất giác chi phần Niệm Định Xã là 3 phần quan trọng nhất rất khó khăn đạt được tu tập viên mãn. Khi sinh sống chúng ta gánh lên vai càng nhiều thì nay xã gánh đó càng khó khăn. Chúng sanh khi xưa dễ dàng đắc đạo vì không có nhiêu khê thỏa mãn tham dục. Chúng ta ngày nay càng có nhiều phương tiện vật chất khoa học kỹ thuật càng cao, thì tham dục càng nhiều càng nặng nên diệt tham dục càng khó khăn đắc đạo. Như thế phải kết hợp Nguyên thủy và Đại thừa mới mong xóa sạch tham sân si cũng như xoá nghiệp bao nhiêu kiếp luân hồi.
Xóa nghiệp của hiện tại và xoá nghiệp của bao nhiêu đời quá khứ. Chỉ tu tập Nguyên thủy chưa chắc đã đầy đủ mà xóa hết nghiệp trong Tàng thức. Trong kinh Lăng Nghiêm phẩm 25 vị Bồ tát kể lối tu tập của mình mà đắc đạo, thì lấy 6 căn 6 trần 6 thức kết hợp 7 đại mà tu tập. Thuở xa xưa thì dễ dàng tu tập như vậy chứ hiện tại khoa học đời sống quá nhiều vật chất thỏa mãn con người, thì tu thành bồ tát không chỉ là làm như vậy mà đạt được. Chúng ta chọn đường tu Nguyên thủy đi nữa thì chúng ta cũng nên biết Đại Thừa với Tánh Không và Duy Thức để tu tập Vi Diệu Pháp để thành đạt. Kinh Nguyên thuỷ có 6 bộ kinh tùy theo ngắn dài mà đặt tên. Lấy đơn giản cơ bản nhất là kinh Pháp Cú, và phức tạp nhất là kinh Vi Diệu Pháp. Trong Vi Diệu Pháp có phần thiền Vô sắc giới là phần thiền mà đức Phật khuyên chúng ta không cần thực hành, chỉ thiền Tứ Niệm Xứ kết hợp Như Lai Thiền căn bản là được rồi. Tóm lại dù chúng ta tu tập theo bất cứ lề lối nào cũng phải kinh qua Phật Nguyên thủy một cách tổng quan, và biết rằng đường đi của chúng ta không rời xa khỏi con đường giải thoát diệt trừ lậu hoặc như thế này. Xin nhớ lời Phật dạy: nầy hành giả ông đừng đi quá xa!! Xin giữ lấy Giới Định tuệ và Văn Tư Tu. Xin nhớ đạo Phật là đạo diệt ngã. Xin nhớ là tu Bồ tát hạnh rồi mới tu thành Phật quả, tự độ và độ tha. Xin nhớ là đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, không thể ôm chỉ một thứ mà được. Dù tu bất cứ đường lối nào cũng phải dùng phương tiện là thiền định mới đạt được tuệ giác. Xin nhớ là đạo Phật đi qua nhiều quốc gia nên chuyển biến nhiều điều khác nhau, nhưng tùy duyên mà bất biến, bất biến là đạo Phật Nguyên thuỷ, tùy duyên là đạo Phật Đại thừa, có tùy duyên nên đạo Phật mới mở rộng ra khắp nơi và chúng sanh mới được ánh đạo vàng của Phật mà giải thoát. Xin đừng cố chấp vì Phật dạy đạo ta là đạo buông xả, diệt ngã, từ bi, và trí tuệ, như thế không có đường lối nào là đúng là sai hay là cao là thấp là trực chỉ hay đi lòng vòng. Hơn 2600 năm rồi đạo Phật đã am hợp với thời gian không gian cải biến theo chúng sanh mà hoằng pháp, hòa hợp với các tôn giáo khác trên thế giới. Xin biết đâu là phương tiện đâu là cứu cánh đâu là tục đế đâu là chân đế mà tu tập. Xin nhớ cho đạo Phật là phá chấp ngã rồi phá chấp pháp rồi cuối cùng phá luôn cái phá chấp, Phật Nguyên thủy chỉ là phá chấp ngã mà thôi.
Tham khảo:
- Kinh vô ngã tướng - Nền tảng Phật giáo-tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu).
- Thiền chỉ Thiền Quán - Thư Viện Hoa sen -Thích trung Định.
- Ngũ uẩn - Thư Viện Hoa Sen - Thích Viên Giác.
- Bản đồ Tâm Linh - www.Budsas.asia
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứu 09:40 15/11/2024Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu 09:45 03/11/2024Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...
Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo
Nghiên cứu 09:45 19/10/2024Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.
Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội
Nghiên cứu 09:30 06/10/2024Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.
Xem thêm