Đức Sơ Tổ của Tịnh độ Việt Nam thời hiện đại - người có công lớn trong dịch kinh Đại thừa
Trong mỗi ngôi chùa Bắc tông đều có những bộ kinh Việt dịch do ngài biên phiên dịch từ kinh điển Đại thừa từ Hán tạng. Ngài là Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh - Sơ tổ Tịnh độ Việt Nam.
Lời Ban Biên tập
Kinh Phật là một tạng trong Tam tạng Thánh điển, gồm kinh - luật - luận. Trong loạt bài "Sự diệu dụng của kinh Phật", khởi đăng từ ngày 1/1/2025, Ban Biên tập mong muốn giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn về hệ thống kinh tạng Bắc truyền, Nam truyền, những công năng, diệu dụng khi tụng đọc, ứng dụng vào đời sống; sự mầu nhiệm của tâm kinh, tụng kinh Pali/ Nguyên thủy khó không; ấn tống kinh sách và giá trị...
Kính mời quý vị cùng theo dõi loạt bài này và có chia sẻ, góp ý, lan tỏa nếu thấy lợi lạc cho tự thân cũng như người hữu duyên.
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh năm Đinh Tỵ (1917), tại làng Mỹ Luông, quận Cái Tàu Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Cân, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Truyện. Đại lão Hòa thượng có 7 anh em, 2 trai, 5 gái; Đại lão Hòa thượng là người con thứ 7 trong gia đình.
Đại lão Hòa thượng được sinh trưởng trong một gia đình trung nông, phúc hậu, nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam bảo. Khi song thân qua đời, Đại lão Hòa thượng sống với các anh chị và học hết chương trình Trung học Pháp tại tỉnh nhà.

Nhiều kiếp tu hành
Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ cõi đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn thiền môn trong tỉnh, năm 1937, Đại lão Hòa thượng lên núi Cấm, đến chùa Vạn Linh, cầu xin Hòa thượng trụ trì Pháp húy Hồng Xứng cầu thế độ xuất gia. Khi trông thấy Hòa thượng, Tổ liền ấn chứng: “Các ông đừng khinh ông này, đời trước ổng đã từng làm Hòa thượng…”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban Pháp húy là Nhựt Bình, hiệu Thiện Chánh tiếp nối dòng pháp Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Sau khi xuất gia, Đại lão Hòa thượng đã đi tham học Phật pháp với chư sơn thiền đức ở trong và ngoài tỉnh, lần lượt nghiên cứu tài liệu Phật học in trong Tạp chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học, chùa Linh Sơn - Sài gòn ấn hành và tham học tại chùa Bích Liên, Liên Tôn - Bình Định.
Năm 1940, Đại lão Hòa thượng cùng với quý Hòa thượng Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa tiếp tục ra Huế học. Trước tiên, Đại lão Hòa thượng theo học Lớp Trung đẳng tại Phật học đường Tây Thiên, do ngài Thiền Tôn làm Giám đốc. Sau đó học lớp Cao đẳng tại Phật học đường Báo Quốc, do ngài Tường Vân làm Giám đốc, Hòa thượng Thích Trí Độ là Đốc giáo.
Năm 1941, Đại lão Hòa thượng đăng đàn thọ Sa-di giới tại chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ đặt cho Pháp hiệu là Trí Tịnh.
Sau khi mãn khóa Cao đẳng Phật học năm 1945, Đại lão Hòa thượng trở về miền Nam để tiếp tục tu học và hành đạo.
Năm 1945, Đại lão Hòa thượng đã cùng với Hòa thượng Thích Thiện Hoa, thành lập Phật học đường Phật Quang, Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long), do Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm Giám đốc, Hòa thượng làm Đốc giáo kiêm Giáo thọ.
Để viên mãn Tam đàn giới pháp, năm 1945, Đại lão Hòa thượng được đăng đàn thọ Tỳ-kheo và Bồ-tát giới tại chùa Long An, Sa Đéc, do Hòa thượng Chánh Quả làm Đàn đầu Hòa thượng.
Năm 1948, Đại lão Hòa thượng về Sài Gòn và thành lập Phật học đường Liên Hải, tại chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Đông, huyện Long Hưng Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí Minh), do Hòa thượng làm Giám đốc, Hòa thượng Thích Huyền Dung làm Đốc giáo.
Năm 1950, Đại lão Hòa thượng nhập thất tịnh tu tại chùa Linh Sơn - Vũng Tàu.
Năm 1951, Đại lão Hòa thượng cùng Hòa thượng Thích Thiện Hòa sáp nhập 03 Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt, trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang, quận 10, tỉnh Chợ Lớn (nay là quận 10, TP.Hồ Chí Minh). Từ năm 1951 - 1956, Đại lão Hòa thượng tham gia Ban Giảng huấn và giảng dạy cho Lớp Cao đẳng Phật học.
Năm 1953, Đại lão Hòa thượng khởi công xây dựng chùa Vạn Đức, Thủ Đức.
Năm 1955, Đại lão Hòa thượng sáng kiến thành lập Hội Cực Lạc Liên hữu tại chùa Vạn Đức, quận Thủ Đức do Đại lão Hòa thượng làm Liên trưởng, Thượng tọa Thích Huệ Hưng làm Liên phó.
Người Việt Nam chúng ta khi tu Tịnh độ, ít ai hiểu Tịnh độ một cách sâu sắc về ý nghĩa này. Sợ chúng ta hiểu lầm, tu sai, ngài đã lập ra Cực lạc Liên hữu, kết hợp những người giữ tâm thanh tịnh lại với nhau để cùng dìu dắt nhau tu học
Năm 1957, Đại lão Hòa thượng được Đại hội Giáo hội Tăng già Nam Việt cử làm Trị sự phó và kiêm Trưởng ban Giáo dục Giáo hội Tăng già Nam Việt. Đồng thời, hợp tác với Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Hòa thượng Thích Thiện Hòa mở các khóa Như Lai Sứ Giả tại chùa Pháp Hội, chùa Tuyền Lâm, chùa Dược Sư… để đào tạo trụ trì và Giảng sư cho Giáo hội.
Năm 1959, trong Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam kỳ II, vào 2 ngày 10, 11-9-1959 tại chùa Ấn Quang, Đại lão Hòa thượng được Đại hội suy cử làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam.
Năm 1960 - 1962, Đại lão Hòa thượng làm Giới Luật sư trong các Đại Giới đàn, tổ chức tại chùa Ấn Quang, Pháp Hội… để truyền trao giới pháp Cụ túc cho chư Tăng.
Năm 1962, Đại lão Hòa thượng được Giáo hội Phật giáo Trung phần cung thỉnh vào cương vị Phó Viện trưởng Phật học Viện Trung phần Hải Đức - Nha Trang.
Năm 1964, Đại lão Hòa thượng làm Trưởng đoàn Đại biểu Giáo hội Tăng già Nam Việt tham dự Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, được tổ chức tại chùa Xá Lợi trong những ngày 30, 31/12/1963 và 1/1/1964 để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tại Đại hội này, Đại lão Hòa thượng được suy cử vào cương vị Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tăng sự.
Năm 1964, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Sài Gòn.
Năm 1965, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị Yết-ma Tiểu giới đàn Quảng Đức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên-Huế.
Năm 1966, Đại lão Hòa thượng là Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Quảng Đức, tại Phật học viện Huệ Nghiêm.
Năm 1966 - 1968, tại Đại hội kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đại lão Hòa thượng được suy cử vào cương vị Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
Năm 1968 - 1971, Đại lão Hòa thượng tham gia Ban Giảng huấn Phật học viện Huệ Nghiêm và giảng dạy Phật pháp cho lớp Chuyên khoa Phật học trong ba năm.
Năm 1969, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm.
Năm 1970, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn đến năm 1975.
Năm 1971, sau khi Giáo hội thành lập Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm - Gia Định, Đại lão Hòa thượng được cử làm Viện trưởng từ năm 1971 đến năm 1991.
Năm 1973, trong phiên họp của Hội đồng Giáo phẩm Trung ương, Đại lão Hòa thượng được cử làm Thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương. Vào ngày 5-7-1973, Đại lão Hòa thượng được cử làm Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng thống, GHPGVNTN.
Cũng trong năm 1973, tại Đại hội Giáo hội Trung ương kỳ 4, Đại lão Hòa thượng được tấn phong Hòa thượng và được suy cử đảm nhiệm cương vị Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Cuối năm 1974, Đại lão Hòa thượng được cố Hòa thượng Thích Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội đồng Quản trị tổ đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc tổ đình.

Phụng sự đạo pháp, đồng hành cùng dân tộc
Năm 1975, Đại lão Hòa thượng được Hội đồng Giáo phẩm Trung ương cử làm Trưởng ban Kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức - Gia Định.
Năm 1976, Đại lão Hòa thượng được mời làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Năm 1980, Đại lão Hòa thượng được cử làm Tuyên Luật sư và Chánh Chủ khảo trong Đại Giới đàn Thiện Hòa, tổ chức tại chùa Ấn Quang.
Đặc biệt, vào đầu xuân Canh Thân năm 1980, khi đất nước đã hoàn toàn độc lập, giang sơn nối liền một dãy, Bắc Nam sum họp một nhà, tất cả sự sinh hoạt, từ phương diện kinh tế, chính trị, xã hội… đều thống nhất trong phạm vi cả nước, và đấy cũng là một thuận duyên cho Phật giáo Việt Nam có đầy đủ cơ duyên thống nhứt thành một mối, trong phạm vi cả nước. Do đó, trong phiên họp hiệp thương của chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, cư sĩ của các tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo được tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh để thảo luận chương trình thống nhất Phật giáo nước nhà. Kết quả một Ban Vận động Thống nhất Phật giáo ra đời, do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban và Đại lão Hòa thượng được cử làm Phó ban Vận động kiêm Trưởng Tiểu ban Nội dung.
Nhà biên phiên dịch kinh điển
Mặc dù bận rộn nhiều công việc cho Giáo hội, Đại lão Hòa thượng vẫn dành thời gian để dịch kinh và giảng kinh. Những tác phẩm Hòa thượng đã biên soạn, phiên dịch và phổ biến như:
Kinh Pháp hoa (8 quyển); Kinh Hoa nghiêm (8 quyển); Kinh Đại bát Niết-bàn (2 quyển); Kinh Đại Bát-nhã (3 quyển); Kinh Đại bảo tích + Đại Tập (12 quyển); Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện; Kinh Địa Tạng bổn nguyện; Kinh Tam bảo; Tỳ-kheo giới bổn; Bồ-tát giới bổn; Kinh Pháp hoa cương yếu (Tóm tắt); Kinh Pháp hoa thông nghĩa (Tóm tắt); Cực lạc Liên hữu tập; Đường về Cực lạc; Ngộ tánh luận.
Tại Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 4 đến 7-11-1981, Đại lão Hòa thượng được Đại hội suy tôn ngôi vị Thành viên Hội đồng Chứng minh, suy cử cương vị Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1982, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo TP.Hồ Chí Minh, nhiệm kỳ I, Đại lão Hòa thượng được cử làm Trưởng BTS Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh đến năm 1987.
Năm 1984, sau khi Hòa thượng ThíchTrí Thủ - Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN viên tịch vào tháng 4-1984, Đại lão Hòa thượng được suy cử Quyền Chủ tịch Hội đồng Trị sự, rồi Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo cho đến ngày về cõi Phật.
Từ năm 1984 đến năm 2013, Đại lão Hòa thượng được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Đại Giới đàn đầu tiên và những Giới đàn tiếp theo của Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh được tổ chức tại chùa Ấn Quang.
Tháng 12-1984, tại Đại hội UBMTQVN TP.Hồ Chí Minh lần thứ 4, Đại lão Hòa thượng được Đại hội cử làm Phó Chủ tịch UBMTTQVN TP.HCM.
Tại Đại hội kỳ III - 1992, Đại lão Hòa thượng được Đại hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Từ Đại hội Mặt trận toàn quốc lần thứ II (1983) cho đến Đại hội VII, Đại lão Hòa thượng được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch và tại Đại hội VI, VII (2009), Đại lão Hòa thượng được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Năm 2004, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Trí Tấn do Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bình Dương tổ chức.
Đặc biệt, Đại lão Hòa thượng đã được Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bà Rịa - Vũng Tàu cung thỉnh đảm nhiệm cương vị Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Tỳ-kheo tại Đại giới đàn Thiện Hòa I (1993), Thiện Hòa III (2000), Thiện Hòa IV (2003), Thiện Hòa V (2006), Thiện Hòa VII (2013). Ngoài ra, Đại lão Hòa thượng còn chứng minh nhiều Đại Giới đàn do Ban Trị sự Phật giáo các tỉnh lân cận TP.Hồ Chí Minh tổ chức.
Suy tôn ngôi vị Sơ Tổ của Tịnh độ Việt Nam thời hiện đại
Sáng 28/2/Giáp Thìn (6/4/2024), tại chùa Vạn Đức (TP.Thủ Đức), nhân Lễ tưởng niệm 10 năm ngày Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Đệ nhất Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN viên tịch, với những công hạnh cao dày và đóng góp lớn lao trong việc xây dựng, xiển dương pháp môn Tịnh độ tại Việt Nam, Đức Pháp chủ cùng toàn thể Đại tăng đã nhất tâm suy tôn Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh là Sơ Tổ của Tịnh độ Việt Nam thời hiện đại.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn


Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Đức Đệ tam Pháp chủ và giai thoại “Cỗ Tết nhà chùa” (Kỳ 3)
Xiển dương Đạo pháp
Những ngày giáp Tết Ất Tỵ 2025, tôi đến chùa Đại Từ Ân, được Thượng toạ Thích Tiến Đạt - Phó Viện trưởng Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội kể về những năm tháng theo học Hoà thượng Thích Phổ Tuệ, với những hồi ức rất sâu sắc và xúc động.

Bài viết về Chú Đại bi đã thu hút gần 3,2 triệu lượt xem
Xiển dương Đạo pháp
Bài viết về Chú Đại bi 84 câu Tiếng Việt thu hút 3,17 triệu lượt xem, là bài viết đơn lẻ có lượng truy cập nhiều nhất trên trang Phật giáo Việt Nam.
Xem thêm