Giấy gói hương và dây buộc cá
Ngày xưa, có hơn bảy mươi vị Bà La Môn, bởi phước đức nhân duyên kiếp trước họ đã đầy đủ, đức Phật nghĩ có thể độ cho họ tại nơi cư trú này.
Những vị Bà La Môn thấy đức Phật tướng hảo trang nghiêm, quang minh nên ai ai cũng đều kính phục.
Đức Phật nói: Quý vị cư trú trong núi này bao lâu rồi, cuộc sống như thế nào? Làm thế nào để cầu thoát ly sinh tử?
Những vị Bà La Môn liền trả lời: Chúng tôi thờ phụng mặt trời, mặt trăng, nước và lửa, thường cúng tế, hy vọng cầu được sinh vào cõi trời Phạm thiên, và thoát ly sinh tử.
Đức Phật nói với các vị Bà La Môn: Nếu quý vị lấy việc cúng tế để cầu mong được sinh lên trời thì không thể thoát ly được luân hồi trong ba cõi, mà cần phải tu hành trí huệ vô lậu, mới có thể đạt được ý muốn ấy.
Nếu không tu trí huệ vô lậu thì vẫn phải đọa lạc trong ba ác đạo, chỉ có xuất gia tu hành mới có thể đạt đến Niết Bàn. Bảy mươi vị Bà La Môn này nghe xong rất hoan hỷ liền phát tâm cầu mong được xuất gia.

Đức Phật nói: “Thiện lai Tỳ-kheo!” Tất cả họ đều được xuất gia tu tập cùng Đức Phật.
Nhưng, trên đường trở về Tịnh Xá, bảy mươi vị Bà La Môn này dần thối tâm lung lay ý chí và càng lúc càng nhớ tưởng đến vợ con. Lúc bấy giờ, gặp trận mưa rất lớn, tình cảm của họ lại trở lên thắm thiết với người thân.
Đức Phật biết được như vậy, nên dùng thần thông biến hóa ra những ngôi nhà cỏ, và bảo mọi người hãy vào trong đó trú mưa. Phật dạy: Nếu chúng ta lợp nhà không kín đáo, gặp mưa sẽ bị dột, cũng như vậy, ý niệm của chúng ta nếu không trải qua tư duy tu tập thì dục vọng, phóng dật kéo đến cũng giống như ngôi nhà bị dột nước. Nếu chúng ta lợp nhà kỹ càng thì dù có mưa cũng không bị ướt. Do đó, chúng ta phải nhiếp tâm, cần tư duy, thực hành, tuệ tri tu tập, nếu làm như vậy, dù có nhiều dục vọng đến đâu chúng ta điều phục được.
Bảy mươi vị Tỳ-kheo này nghe xong, trong tâm phản tỉnh, muốn phát tâm tinh tấn tu học nhưng vẫn còn mơ hồ chưa hiểu. Khi mưa tạnh, họ hướng về phía trước tiếp tục cuộc hành trình, đang đi trên đường thì thấy một tờ giấy. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo nhặt tờ giấy lên, rồi liền hỏi các thầy: “Giấy này có mùi như thế nào?”
Các vị Tỳ-kheo này cầm giấy lên ngửi và nói: “Ôi, tờ giấy gói nhang, tuy đã bỏ nhưng mùi thơm vẫn còn”.
Sau đó đoàn người tiếp tục đi thì thình lình phát hiện thấy một khúc dây thừng, đức Phật bảo Tỳ-kheo nhặt lên. Một vị Tỳ-kheo ngửi và nói: “Đây là sợi dây rất hôi tanh mùi cá, chắc nó đã từng buộc cá”.
Đức Phật dạy: Bản tính của con người vốn là trung tính, vì một nhân duyên nào đó mà có khi tạo tội, khi tạo phước. Nếu chúng ta thân cận thánh hiền thì tâm đạo được vững mạnh, ngày càng tăng tiến, nếu gần người ngu hoặc sống chung với bạn ác thì vô hình trung tăng trưởng những ác nghiệp cũng giống như sợi dây hoặc tờ giấy, do đó đức Thế Tôn nói bài kệ có nội dung như sau:
Nếu thân cận người dung tục, xấu xa thì cũng giống như cả ngày cùng với vật thối ở chung, lâu ngày nhiều tháng, vô tình mình bị ảnh hưởng bởi các tính xấu ấy từ khi nào mà mình không hay không biết. Ngược lại, nếu chúng ta cùng với hiền thánh sống chung, thân cận với người hiền lành cũng giống như mỗi ngày cùng hun đúc trong hương thơm, từ từ trí tuệ, thiện pháp của chúng ta tăng trưởng, hành vi dần dần cao thượng hơn.
Bảy mươi vị Tỳ-kheo sau khi nghe đức Phật giảng dạy sinh lòng hổ thẹn với bản thân và mọi người xung quanh, họ cũng hiểu rằng gia đình là nơi tập hợp những sự ô uế, vợ con là mối ràng buộc. Do đó, chúng ta có được sự nhiếp tâm, chánh niệm chánh trí, cùng đức Phật tu học, biết được đức Phật có những vị đệ tử đều là bậc thiện tri thức, chúng ta thân cận những vị thiện tri thức này cũng giống như mỗi ngày được tiếp xúc với hương thơm, chúng ta không nên tiếp cận với bạn ác sinh tâm ô uế, mà nên tinh tấn tu hành để đạt đến A La Hán.
Trung Quốc cũng có câu: “Cùng người thiện sống, như vào nhà bạn hiền, lâu ngày cũng tỏa hương thơm” sống chung với người tốt cũng giống như vào nhà đầy hương thơm, bản thân không biết nhưng vô hình chung đã thấm mùi thơm. Cũng có câu: “Cùng kẻ ác, như tự do đi vào chợ cá, lâu ngày cũng có mùi tanh”.
Đại chúng cùng nỗ lực cố gắng.
(Tác giả: Thích Hậu Quán trước tác, Vạn Lợi, Lệ Trúc, Hạnh Tín, Phước Ngọc dịch - Xuất bản 2013)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sự linh ứng của việc trì tụng kinh Địa Tạng
Nghiên cứuMồng 1 tháng 10 năm 2006, sư phụ Diệu Chân đi Dương Châu mở thiền thất, ngang qua chỗ tôi ngài đã ghé vào ban pháp nhũ và giảng nhiều điều hay về việc tu học Phật cho các cư sĩ đến bái kiến.
Diệu pháp trong kinh điển
Nghiên cứuTụng kinh phải hiểu nghĩa, không phải tụng để lấy số lượng.
Thiền tông Việt Nam qua Thiền sư Cứu Chỉ
Nghiên cứuSư họ Đàm, làng Phù Đàm, phủ Châu Minh (tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho sách Phật đều đọc. Một hôm cầm sách tự than: ‘Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở thế tục chẳng phải là pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có không, có thể dứt sanh tử; nhưng phải siêng tu giữ giới, cầu thiện tri thức ấn chứng mới được’.
Xem thêm















