Khái quát lịch sử Như Lai Tạng
Như Lai Tạng là một thuật ngữ Phật giáo xuất hiện rất sớm trong văn hiến Phật giáo, tuy nhiên sự hình thành nên tư tưởng Như Lai Tạng là cả một quá trình chịu sự tương tác của các yếu tố nội tại và ngoại tại. Trong phạm vị của một bài viết dành cho Tạp chí, chúng tôi xin được trình bày khái quát sự hình thành của tư tưởng Như Lai Tạng.
Chương “Pháp thân” trong kinh Thắng man nói: “Pháp thân Như Lai không lìa phiền não, ẩn tàng trong phiền não, gọi là Như Lai Tạng”
Luận Thích ma ha diễn, quyển 2 qui nạp các thuyết kể trên mà lập ra 10 loại Như lai tạng: Đại tổng trì Như lai tạng, Viễn chuyển viễn phược Như lai tạng, Dữ hành dữ tướng Như lai tạng, Chân như chân như Như lai tạng, Sinh diệt chân như Như lai tạng, Không Như lai tạng, Bất không Như lai tạng, Năng nhiếp Như lai tạng và Ẩn phú Như lai tạng”.
Như Lai Tạng (tathāgata-garbha) là từ kết hợp của tathāgata và garbha, hai từ vốn đã có nguồn gốc từ thần giáo Ấn Độ được Phật giáo thâu nhận và phát triển thành hệ tư tưởng đặc thù. Như đã trình bày ở phần dẫn nhập, thuyết Như Lai Tạng hình thành vào thời trung kỳ Phật giáo Đại thừa, đó là một quá trình thừa kế, phát huy và hoàn thiện trong lịch trình diễn tiến tất yếu của lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại thừa nói chung và học thuyết Như Lai Tạng nói riêng, có thể khái lược như sau: Thuyết Như Lai Tạng lấy Như Lai làm vấn đề trọng tâm. Như Lai ban đầu chỉ cho Đức Phật Thế Tôn sống động ở nhân gian mà hàng đệ tử được ở chung, được nghe ngài thuyết pháp. Sau khi Như Lai diệt độ, các đệ tử kính nhớ chỉ còn biết nương tựa vào giáo pháp và giới luật làm thầy dẫn đường và xem giáo pháp là pháp thân, là thân bất diệt của Như Lai. Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Thầy của chúng ta là Đức Thế Tôn xuất hiện với thọ mạng ngắn ngủi ở thế gian, nhục thân của Ngài tuy đã mất, nhưng Pháp thân của Ngài vẫn còn.” Thời kỳ phân chia bộ phái, một phần của Thượng Tọa bộ (Sthavira)và Nhất Thiết Hữu bộ (Sarvāstivādin) đã có lập trường khá kiện toàn về Phật thân bao hàm cả hiện thực và lý tánh. Họ cho rằng sắc thân là hữu lậu và pháp Bồ-đề là vô lậu, pháp bồ-đề chính là pháp thân. Quan niệm về Như Lai của hệ Đại chúng bộ (Mahāsā-ghika), cũng trong quá trình phát triển vừa mang tính tín ngưỡng, vừa mang tính lý tưởng. Họ cho rằng: “Đức Như lai sinh ra và lớn lên trong thế gian, hoặc đi, hoặc đứng… đều không bị pháp thế gian làm ô nhiễm.
Do vậy nên biết rằng thân của đức Như Lai cũng là vô lậu.” Dị bộ tông luân luận cũng đã có một kết luận thâu tóm và làm rõ chi tiết này: “Chủ trương căn bản của Đại chúng bộ, Nhất thiết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ là giống nhau, cho rằng: Chư Phật Thế tôn đều là những bậc xuất thế gian, tất cả Như lai đều không có pháp hữu lậu.”. những quan điểm về thân như Lai như thế có thể nói là một sự lý tưởng hóa nên khó trách khỏi siêu thực vì thế gặp phải những vấn đề hiện thực khó giải đáp thỏa đáng chẳng hạn như vấn đề đại tiểu tiện từ nhục thân của như Lai. Tiếp nhận tư tưởng này, thời kỳ đầu của Đại thừa chưa có sự phân biệt chi ly về nhục thân và pháp thân nhưng về sau đã phân biệt Pháp thân và Hóa thân (và sau nữa còn phân biệt 3 thân, 4 thân…)tư tưởng thân như Lai tiếp tục phát triển theo trào lưu của Đại thừa đến thời kinh Kim cang bát-nhã đã có quan điểm rõ ràng và khẳng định:
- Quan điểm hết thảy chúng sinh đều thành Phật vẫn chưa có hệ thống lý luận rõ ràng.
Tóm lại có thể nói rằng lịch sử hình thành tư tưởng Như Lai Tạng bắt đầu từ ý niệm về sự vắng bóng của nhục thân Như Lai phát triển thành pháp thân thường trụ và không bao lâu đã chuyển tiến đến quan điểm Phật thân thường trụ, thế rồi tiếp tục phát triển thành quan điểm Phật tính thường trụ và tiềm ẩn nơi mỗi một chúng sinh, tuy nhiên không dừng lại ở đó mà phát triển thành học thuyết Như Lai Tạng và điểm cực mỹ của học thuyết này là tư tưởng kinh Lăng-già và kinh Mật-nghiêm đã điểu hòa và kết hợp tư tưởng Như Lai Tạng và A-lại-da nâng triết lý Đại thừa cao lên một bậc giải quyết trọn vẹn cả 2 chiều giải thoát quan và sinh tử quan. Chính vì thế mà Lữ Trừng đã nhận định: “Lăng-già kinh và Mật-nghiêm kinh xuất hiện, dùng thái độ điều hòa 2 thuyết kể trên nói rằng A-lại-da và Như Lai Tạng chỉ có tên gọi bất đồng còn pháp thể là một, nghĩa lý cũng là một, cho rằng A-lại-da không chỉ có nhiễm mà còn có tịnh, như thế là có ý đem hai thuyết tổng hợp lại.”
Thích Quảng An
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 năm 2014
-
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng
Nghiên cứu 15:55 17/04/2024Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala
Nghiên cứu 10:10 05/04/2024Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.
Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người
Nghiên cứu 18:00 02/04/2024Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.
A lại da thức và Mạc na thức
Nghiên cứu 09:00 16/03/2024Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.
Xem thêm