Kinh văn nguyên tác rất dài, ở đây, chúng tôi chỉ xin được tóm lược nội dung qua một vài ý chính như sau: “Sau gần 49 năm thuyết pháp độ sinh, trong mùa an cư cuối cùng, đức Phật liền nghĩ đến thánh mẫu Ma Da, nên Ngài tạm xa rời nhân gian để lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu và chư Thiên nghe”.
Trong thời gian này, vua Ưu Đà Diên, ngày đêm hằng trăn trở thao thức nhớ nghĩ đến Phật. Vì ông là một phật tử rất thuần thành và luôn sùng kính Tam Bảo.
Do tấm lòng nhớ nhung tha thiết đó, là động cơ chính yếu thúc đẩy ông phải gấp rút tạo hình tượng Phật. Đó là một việc làm nhằm mục đích thể hiện lòng khao khát kính ngưỡng của ông đối với đức Phật. Đồng thời, ông cũng muốn lưu lại hình bóng của đức Thế Tôn trong những lúc Ngài không có mặt ở nhân gian.
Sau khi nghĩ thế, nhà vua liền ra lệnh triệu tập các điêu khắc gia nổi tiếng trong nước để điêu khắc tạo hình tượng Phật để chiêm bái. Nhưng, lệnh truyền ra, mà không có ai dám đảm nhận trọng trách này. Vì họ nghĩ rằng, thân Phật tướng hảo quang minh, oai nghiêm cao quý, hình dung của Ngài siêu trần tuyệt thế, làm sao có thể tạc tượng chuyển tải được những đức tướng giống hệt Ngài được. Thật là một việc làm vô cùng khó khăn, nếu không khéo sẽ trở thành đắc trọng tội với đức Phật. Do nghĩ thế, mà không một người thợ điêu khắc nào dám nhận lãnh.
Lúc bấy giờ, có một vị Trời tên là Tỳ Thủ Yết Ma, biết được việc đó, liền biến hóa ra một người thợ mộc. Vị thợ mộc này liền đến trước mặt nhà vua tâu rằng: “Muôn tâu Đại vương, tôi là một thợ mộc khéo tay nghề, xin hết lòng vì nhà vua mà tạo tượng Phật. Việc làm của tôi, quyết không để cho nhà vua thất vọng. Vậy, cúi xin Đại vương chớ tìm người khác hãy để cho tôi đảm nhận trọng trách này”.
Nghe qua, nhà vua chấp thuận và ra lệnh phải thi hành ngay. Với bàn tay tuyệt xảo của vị trời này, chỉ trong vòng thời gian một ngày, thì tượng Phật đã được hoàn tất. Hình tượng Phật điêu khắc tuyệt đẹp, nhà vua rất ưng ý hài lòng. Nhà vua chiêm ngưỡng trầm trồ khen ngợi, phát hỷ tâm thanh tịnh, liền chứng Nhu thuận nhẫn. (Nhu thuận nhẫn nghĩa là tâm nhu, trí thuận; theo Vô Lượng Thọ Kinh, thì nhu thuận là một trong 3 pháp nhẫn: Âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, và Vô sinh pháp nhẫn). Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn, nhà vua vô cùng hoan hỷ mừng rỡ, bao nhiêu phiền muộn đều tiêu tan hết.
Về công đức tạo tượng, cũng theo kinh văn nói trên, đức Phật dạy rằng: “Bất cứ ai dùng những vật liệu như: tơ sợi thêu thùa tượng Phật hoặc dùng chì, kẽm, vàng, bạc hay các loại gỗ thơm chiên đàn… tô đắp tạc tượng, khiến mọi người chiêm ngưỡng lễ bái, thì đều được phước báo vô lượng vô biên. Người đó sẽ được hình tướng đoan trang và sẽ tiêu trừ được những tội cực trọng”.
Qua đó cho chúng ta thấy rằng, người tạo nên tượng Phật hoặc người góp tịnh tài hỷ cúng vào công việc tạo tượng này, thì cả hai đều được phước đức rất lớn lao. Vì người phật tử góp phần vào việc duy trì Tam Bảo để làm lợi lạc cho nhân sinh. Nhờ đó, mà Phật pháp mãi được lưu truyền rộng rãi và cũng nhờ đó mà mọi người mới nghĩ nhớ đến ân đức cao sâu rộng rãi bao la của đức Phật. Có tưởng niệm như thế, người phật tử mới thiết tha nỗ lực hành trì và quyết lòng noi theo tấm gương hạnh nguyện từ bi vị tha cao cả của đức Phật mà gắng công tu hành để chóng được giác ngộ giải thoát
** Lễ Phật là nhớ ân đức của Phật: Nhân hình tượng của Ngài, gợi cho chúng ta nhớ đến ân đức lớn lao, Ngài đã tìm đường giác ngộ, thấu tột chân lý giải thoát đau khổ trong sinh tử và đem chỉ dạy lại cho mọi chúng sinh. Ân đức ấy làm sao nói hết ? Do đó, chúng ta thành tâm kính lễ Ngài để tỏ lòng biết ơn vô hạn. Song lễ Phật vốn do tâm thành, có tâm chí thành thì mới cảm sâu với Phật.
Như câu chuyện: trước kia ở Tây Tạng có bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, thường đi qua Ấn Độ. Ngày kia, đứa con sắp lên đường, bà gọi lại bảo :“Tại Bồ Đề Đạo Tràng là nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang một cái gì từ đó đem về. Có thể là một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì cũng được, xem như sự hiện diện của chính Đức Phật trong nhà mình.
Nhiều lần như vậy, nhưng đứa con đều không thực hiện được. Lần nọ, đứa con sắp lên đường đi Ấn Độ bà bảo: “Nếu lần này con không mang gì về cho mẹ từ Bồ Đề Đạo Tràng để mẹ thờ thì mẹ sẽ tự tử chết ngay”.
Đứa con đi, sau thời gian làm việc, xong và trở về, bỗng nhớ ra mình quên ghé Bồ Đề Đạo Tràng lấy một ít xương tro Phật đem về cho mẹ. Anh hoảng sợ, nghĩ đến nếu về không thì mẹ mình sẽ tự tử chết mất. Anh nhìn quanh thấy một con chó đã chết khô, anh vội nhổ một chiếc răng chó, gói lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa. Về đến nhà, anh vui mừng nói với mẹ:
- Thưa mẹ, đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ Đàm, tự tay con đã tìm được tại Bồ Đề Đạo Tràng.
Bà mẹ tin con và hết sức tôn quí chiếc răng ấy. Kể từ đó, bà hết lòng phụng thờ chiếc răng, không lâu, bà đã cảm được sự bình an của nội tâm, điều mà bà nghĩ suốt đời tìm kiếm cũng khó gặp.
Không lâu, bạn bè hàng xóm cũng nhận thấy xung quanh chiếc răng đó có ánh sáng năm màu rất kỳ bí. Mỗi ngày có nhiều người đến lễ lạy. Tới ngày bà chết, cũng có ánh sáng bao quanh thân thể bà và bà mỉm cười ra đi nhẹ nhàng. (Sư Tử Tuyết Bờm Xanh).
Câu chuyện cho thấy, sự cảm ứng không phải ở hình ảnh bên ngoài mà cốt là ở chỗ thầm kín bên trong, từ nội tâm chân thành của người mới cảm sâu với Phật. Nếu lễ Phật với tâm giả dối thì hẳn khó có sự cảm sâu. Còn nếu với tâm ngã mạn kiêu căng thì chỉ thấy là tượng đa, tượng gỗ chớ gì! Do đó, phải tự kiểm xét lại tâm mình để thấy rõ việc làm của mình đúng ý nghĩa hay không.
** Lễ Phật là để nhắc mình nhớ lại Đức Phật nơi mình: Vì Phật cũng là hình tướng một con người do tu hành thành Phật ; mình cũng là con người thì mình cũng có khả năng tu hành giác ngộ thành Phật. Mình cũng có một Đức Phật trong lòng đâu thiếu thốn, đâu thể cam chịu tối tăm làm chúng sinh mãi mãi. Đó là đem lại niềm tin vững mạnh để chúng ta vươn lên, chuyển hóa con người xấu ác, xóa tan mặc cảm tội nghiệp sâu dày nhạn chìm con người trong tội lỗi.
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải lúc còn bé, một hôm theo mẹ vào chùa lễ Phật, sư bèn chỉ tượng Phật hỏi mẹ :
- Đây là cái gì?
Mẹ bảo :
- Đó là Phật.
Sư nói:
- Hình dáng giống người không khác, sau này con sẽ làm Phật!
Đó là nhân hình ảnh Đức Phật bên ngoài, đánh thức Đức Phật bên trong của mình, kích thích hạt giống giác ngộ nơi mình khiến được nảy mầm và lớn mạnh lên. Lễ Phật như thế là một ý nghĩa cao siêu, có công đức không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, Phật chỉ là một danh từ, hình tướng biểu tượng bên ngoài là phương tiện tạm thời để nhắc nhở người tỉnh giác, không phải Phật thật. Cần tỏ ngộ lại tâm sáng suốt nơi chính mình, đó mới là Phật gốc. Đức Thích Ca thành Phật cũng là thành ngay trong tâm ấy, thấy lại chỗ này là gặp Phật liền.
Trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo tức là Ở Trong Đời mà Vui Với Đạo của vua Trần Nhân Tông đã nói :
Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên
Khát uống, đói ăn, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà, đừng kiếm nữa
Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền.
Bụt hay Phật vốn ở ngay nơi ta, không phải nhọc nhằn tìm ở đâu khác. Bởi chúng ta quên gốc đuổi theo ngọn nên cứ chạy tìm kiếm Bụt ở bên ngoài. Nào ngờ, khi đạt đến tỏ ngộ mới tỉnh ra, chính Bụt ở trong tâm giác ngộ của mình đây thôi. Bao nhiêu công phu chạy tìm liền buông xuống nhẹ nhàng.
Như vậy, thường lễ Phật là nhắc nhở mình cũng phải có chút ít giác ngộ mới xứng đáng là Phật tử, tức là con bậc giác ngộ. Đây là một chân lý sáng ngời đâu có gì mập mờ, che đậy. Ngài Phó Đại Sĩ hiện thân của Bồ Tát Di Lặc có bài kệ :
Đêm đêm ôm Phật ngủ.
Sáng sáng cùng Phật dậy,
Ngồi đứng cùng theo nhau,
Nói nín cùng cung ở,
Chẳng mảy may tạm rời,
Giống hệt hình với bóng.
Muốn biết chỗ Phật đi,
Chính cái nói năng đó.
Đại sĩ nhắc nhở người, ngày ngày đều cùng sống chung với Phật không lúc nào tạm rời, giống hệt hình với bóng, vậy mà đành ôm cái mê để chịu lang thang trong bụi trần, có tự đáng thương chăng ? Nếu khéo chính chắn soi trở lại, chính ngay chỗ đang nói năng, đối đáp qua lại đây, liền gặp Phật ngay trong đó, nào có xa đâu !
Mừng thay, tất cả người người đều sẽ là những vị Phật tương lai !
Định Hương