Mô thức học Phật (Phần 2)
Học Phật là tìm hiểu điều Phật dạy, là làm theo ý Phật, là đi tới chứng ngộ Đạo pháp và trở thành Phật. Đó là nét đặc thù độc đáo trong việc học Phật, không giống như những việc học khác ở thế gian.
Tam quán Không-Hữu-Trung
Mô thức này theo tiêu chuẩn luận lý: Quán cũng đọc là Quan có nghĩa nhận xét cân nhắc điều tà vạy với điều chân thực để đạt tới Chân lý. Thường dùng tiếng ghép đôi như quán niệm, quán giải, quán tưởng, quán chiếu, thiền quán, tà quán, chánh quán… Thông thường hay nói đến Tam quán:
- Không quán: Nhận ra mọi sự vật đều không có thực tánh, thực tướng như thường nói Vạn pháp giai không. Thể tánh vạn pháp là Không tịch.
- Hữu quán: Cũng gọi là Giả quán, nhận ra mọi sự vật đều vô thường, luôn luôn biến hóa chuyển dịch. Cái gọi là có thật chỉ là giả tạm, không bền vững lâu dài.
- Trung quán: Nhận ra lẽ Trung đạo, không phải Không, không phải Có, tiếng nhà Phật gọi là vô thực vô hư.
Phép Không quán dạy phá chấp Có. Phép Hữu quán dạy phá chấp Không. Phép Trung quán dạy hành giả giữ mức Trung, không phải Có, không phải Không. Đó là Chánh đạo trong Phật học, tin và làm theo đúng như Phật dạy.
Ngũ quán
Đi sâu vào chi tiết hơn có phép Ngũ quán:
- Chân quán: Nhận ra Chân đế, cái lý Chân thực để dứt bỏ sự chấp Không trong phép Không quán.
- Thanh tịnh quán: Nhận ra tâm Thanh Tịnh, dứt trừ được sở tri chướng, những sai lầm khi chấp Có trong phép Hữu quán.
- Quảng đại Trí tuệ quán: Nhận ra Trí tuệ khi Trung quán, dứt trừ được Vô minh.
- Bi quán: Do ba phép quán tưởng vừa nói trên nhận ra sự khổ não của chúng sanh, cần phải cứu độ chúng sanh cho hết khổ.
- Từ quán: Cũng do ba phép quán tưởng vừa nói trên nhận ra việc cần đem đến sự an vui cho chúng sanh.

Quán pháp có hiệu năng diệu ứng trong mọi trường hợp từ việc to lớn quan trọng đến việc nhỏ nhặt thường ngày. Ví dụ điển hình: Để đối trị diệt trừ tính tham ăn, một Tỳ kheo khi thọ thực thức ăn thí chủ cúng dường đã hành pháp ngũ quán như sau:
- Tưởng đến giá trị món thực phẩm mà thí chủ đã đem cúng dường cho mình thọ hưởng, tưởng đến công lao khó nhọc của người đã tạo ra.
- Tự xét đức hạnh của mình có xứng đáng thọ hưởng hay không.
- Phải tự ngăn ngừa tính tham ăn.
- Coi món ăn đó như liều thuốc trị bệnh đói mà thôi.
- Chỉ vì cần có sức mạnh để tu hành nên tạm dùng món ăn đó mà thôi.
Tam học Giới-Định-Tuệ
Cũng gọi là Tam Tu, mô thức này theo tiêu chuẩn tăng trưởng nội lực của người hành trì. Ba phần học này theo thứ tự liên tiếp và có liên quan mật thiết với nhau: Trì giới mới sanh Định, có Định mới phát Tuệ, có Tuệ mới đoạn trừ Vô minh và Phiền não để rồi đắc Chân Tâm Thanh Tịnh.
- Giới học: Để giữ điều Giới cấm về cả tam nghiệp thân, khẩu, ý. Về Giới thì học tạng Luật.
- Định học: Để tìm hiểu Thiền định, tu sửa đức hạnh, tiến tới mức độ Thanh Tịnh. Về Định thì học tạng Kinh vừa tham thiền.
- Tuệ học: Để sáng tỏ Chân lý, đoạn trừ mê vọng nghi hoặc, diệt tận Vô minh. Về Tuệ thì vừa học tạng Luận vừa mở mang trí phân biện.
Khi viên thành đạo quả Tam học, hành giả có đạo vị thành Thánh, gọi là Vô học, nghĩa là không còn điều gì để học vì tâm đã thông suốt. Đây là quả vị A-la-hán trong Thanh Văn thừa và quả Bích-chi Phật trong Duyên Giác thừa. Khi đó gọi là Vô lậu học vì đã đạt tới Vô lậu tuệ, Vô lậu trí, không còn điều gì là không thông suốt sáng tỏ.
Tam giải thoát môn Không
-Vô tướng-Vô tác
Đây là ba cửa giải thoát, cũng gọi là Tam Tam muội (Ba phép Thiền định). Tam Niết-bàn môn (Ba cửa thông tới Niết-bàn). Đây là mô thức theo tiêu chuẩn Vô thượng Cứu cánh trong Phật pháp.
- Không môn: Thực chứng vạn pháp vốn là Không.
- Vô tướng môn: Thực chứng vạn pháp không có thể tướng, không có cả tướng Không nữa. Thực chứng Chân Không, không phải Ngoan Không khi còn chấp vào tướng Không đối nghịch với hữu.
- Vô tác môn: Cũng gọi là Vô nguyện môn, thực chứng không có mong cầu điều gì cho mình, không có tác nghiệp trong khi vẫn sinh hoạt bình thường cứu độ chúng sanh. Nói cách khác là vẫn sinh hoạt bình thường với Chân Tâm Thanh Tịnh, Trí Tuệ Vô lậu, không có tác nghiệp kể cả nghiệp lành vì lý do không còn ý niệm lành hay dữ.
Khi Đức Thích Ca trở về thành Ca-tỳ-la-vệ đã thuyết độ vua Tịnh Phạn Tam Giải Thoát môn. Nghe xong, nhà vua ngộ Đạo.
Kết luận:
Học Phật là tìm hiểu điều Phật dạy, là làm theo ý Phật, là đi tới chứng ngộ Đạo pháp và trở thành Phật. Đó là nét đặc thù độc đáo trong việc học Phật, không giống như những việc học khác ở thế gian.
Về mặt hành trì, người thiện học cần tự vấn: Trong ba việc Tu, Thờ và Học Phật mình đã hội đủ cả ba hay chưa ? Việc nào đã thực hành trước, việc nào sau ? Điều quan trọng là ba việc cần hành trì đồng đều, cân bằng, không việc nào mạnh, việc nào yếu, có vậy mớidẫn đến đạo quả viên dung như ý.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tinh hoa văn hiến Kinh Bắc trong dòng chảy văn hóa Phật giáo Việt: Danh nhân Vũ Trinh và thủ khoa – nghệ sĩ thị giác Vũ Tú
Nghiên cứuQua hai tấm gương: danh sĩ Vũ Trinh và thủ khoa Vũ Tú – một trí thức cổ; một nghệ sĩ hiện đại – chúng ta nhìn thấy tính đa dạng, tính linh hoạt của Phật giáo Việt Nam: không bó hẹp vào thiền viện, vào kinh kệ, mà lan tỏa vào văn hoá, triết học, mỹ thuật, đời sống thường nhật. Họ – mỗi người theo cách riêng – đều góp phần làm giàu cho di sản văn hóa Phật giáo Việt, giúp đạo Phật vừa giữ được cốt cách tâm linh, vừa hòa nhập với dòng chảy lịch sử, xã hội, nghệ thuật.
Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam
Nghiên cứuKinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứuCó thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứuPhật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Xem thêm














