“Một thông điệp muôn thưở cho thế gian”
Đức Phật xuất hiện ở thế gian chính vì điểm trọng yếu gì?
Theo lịch sử, đức Phật Thích Ca Mâu hiện thân thành Phật nơi cõi đời này, là một con người lịch sử thật sự.
Ngài đản sinh nơi vườn Lâm-tì-ni (hiện ở xứ Népal) cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-da.
Điểm nổi bật trong buối sáng hôm ấy là, Ngài đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói to lên như tuyên bố với thế gian:
Thiên thượng thiện hạ
Duy ngã độc tôn
Dịch:
Trên trời dưới đất
Chỉ ta tôn nhất
Ngài muốn ngầm nói gì trong đó?
Tức muốn nhắn nhủ thế gian, dù ở trên cõi trời hay dưới nhân gian này đều không có gì đáng quý, đáng tôn; chỉ phải trở về đời sống chân thật ngay chính mình, đó mới là chỗ tôn quý nhất, không gì hơn.
Bởi tất cả thế gian, nói chung là ba cõi trời, người, quỷ thú...đều sống trong nhà lửa vô thường không có chỗ nào an ổn.
Đúng như Kinh Pháp Hoa, Phật đã nói:
“Tam giới vô an, du như hỏa trạch”, nghĩa là ba cõi đều không an ổn, giống như ngôi nhà lửa thôi.
Ngày xưa, lúc Phật ở Tinh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, có bốn anh em Phạm Chí đã tu hành chứng được năm thần thông, tự biết mình bảy ngày nữa sẽ chết.
Họ cùng bàn với nhau:
- Sức thần thông của chúng ta có thể làm nghiêng lệch trời đất, nắm giữ mặt trời, mặt trăng, dời núi cao, ngưng sông chảy... Không việc nào không làm được, lẽ nào tránh không khỏi cái chết sao ?
Người thứ nhất bèn nói:
- Tôi sẽ lặn xuống biển, ở trên không xuất hiện, ở dưới thì không đến đáy, ở giữa lưng chừng biển thì quỷ vô thường làm sao biết chỗ mà tìm ?
Người thứ hai nói:
- Tôi sẽ chui vào giữa núi Tu-di, rồi khép lại bao xung quanh thì quỷ vô thường biết đâu mà kiếm ?
Người thứ ba nói:
- Tôi sẽ ẩn nấp giữa hư không, quỷ vô thường làm sao biết được ?
Người thứ tư nói:
- Tối sẽ lẫn vào chợ, quỷ vô thường đến bắt một người nào đó thôi, cần gì phải bắt tôi ?
Bàn xong, bốn người đến gặp vua Ba-tư-nặc và từ giã nói:
- Thọ mạng chúng tôi còn bảy ngày nữa, nay chúng tôi muốn trốn vô thường, mong rằng sẽ thoát được và trở về thăm vua.
Bốn người làm theo ý đã bàn tính.
Tới ngày thứ bảy, người trong chợ thì nằm chết giữa chợ, trên không thì rớt xuống, dưới biển thì nổi lên, trong núi thị lộ ra, tất cả đều chết không ai thoát được.
Cho nên Phật có nói bài kệ Pháp cú:
"Dù trốn giữa hư không
Hay biển khơi, núi rộng.
Không một nơi nào cả
Tránh khỏi được tử vong."
Đây cho thấy, dù tu chứng được thần thông, có những khả năng người thường không thể làm được, nhưng cuối cùng đến khi tuổi thọ hết, cũng không thoát khỏi cái chết, không trốn đi đâu để được an ổn.

Câu chuyện thứ hai là ông Phạm Chí Hắc Thị, cũng tu chứng được năm thần thông, thuyết pháp rất hay, đến trời Đế Thích còn xuống nghe pháp.
Nhưng một hôm nghe vị ấy giảng xong, trời Đế Thích bỗng tỏ vẻ buồn bã rơi lệ.
Phạm Chí thấy lạ bèn hỏi:
- Ngài vì sao buồn khóc như thế ?
Trời Đế Thích nói:
- Tôi nghe ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi.
Phạm Chí nghe xong hoảng hồn, xin trời Đế Thích cứu cho.
Trời Đế Thích từ chối, chỉ ông đến với Phật.
Phạm Chí vội dùng thần thông bay đến chỗ Phật, trên đường thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa bèn nhổ cả hai bưng trên tay đến cúng Phật.
Phật gọi Phạm Chí bảo:
- Hãy buông đi!
Ông buông cây bên trái.
Phật lại bảo:
- Buông đi!
Ông buông tiếp cây bên phải.
Phật bảo tiếp:
- Buông đi!
Ông thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều trống cả rồi. Ngài còn bảo con buông cái gì?
Phật bảo:
- Ta chẳng phải bảo ông buông gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong và sáu thức ở giữa kia kìa. Tất cả một lúc buông sạch hết, không còn chỗ nào để buông nữa, ngay đó chính là chỗ ông thoát khỏi sinh tử.
Phạm Chí ngay đó liền tỏ ngộ phép vô sinh, lễ tạ Phật.
Ông Phạm Chí Hắc Thị này cũng được thần thông, cũng biết thuyết pháp, nhưng vẫn chưa được an ổn đối với sinh tử, vẫn chưa có lỗi thoát, phải tìm đền Phật pháp.
Chỉ “ba cái buông” của Phật dạy đó, mới là con đường an ổn thật sự trong thế gian này.
Đối với bên ngoài, buông hết các trần, không để tâm duyên theo, phóng ra, là cắt đứt duyên ngoài.
Đối với bên trong buông các căn, không bám vào chỗ thấy biết nơi căn khiến các trần đi vào, làm chỗ tiếp xúc với duyên ngoài, là cắt đứt duyên trong.
Buông thức, là không sinh tâm phân biệt yêu ghét trên căn trần, thì sinh tử sẽ đến ở chỗ nào ?
Pháp vô sinh là đó!
Chúng ta vì bám chặt nơi căn, đuổi theo trần, sinh tâm phân biệt lăng xăng nên dẫn mình chạy mãi trong luân hổi sinh tử.
Mắt thấy sắc liền đuổi theo sắc, khởi phân biệt đẹp xấu, sinh yêu ghét, thành có phiền não, quên mất thật.
Trong bài sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông lời sám hối về căn mắt, vua nói:
“Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật”.
Tức là, với những cái nhân ác, nhân đưa mình vào đau khổ lại xem kỹ, lại đuổi theo tạo tác; còn nghiệp thiện, nghiệp an vui lại coi thường bỏ qua.
Sống lầm lẫn thật nơi chính mình.
Cần phải sám hối để tỉnh trở lại.
Tai thì nghe tiếng, rồi chạy theo tiếng, phân biệt dở hay, cũng sinh yêu ghét, dẫn đi vào sinh tử.
“Ghét nghe chính pháp, thích nghe lời tà.
Mê mất gốc chân, đuổi theo ngoại vọng”.
Chánh pháp giúp mình mở sáng tâm tính lại không thích nghe, thành chạy theo cái hư vọng giả dối bên ngoài, quên mất gốc chân thật sáng ngời nơi mình.
Sống như thế gọi là sống mất mình, sống bị vật chuyển, mất tự chủ, Phật gọi là mê.
Mũi đuổi theo mùi, phân biệt thơm thối, cũng lại đi vào sinh tử vô thường:
"Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào.
Chẳng thích chân hương, năm phần thanh tịch”.
Tức theo mùi hương của duyên trần bên ngoài, còn hương chân thật là năm phần pháp thân hương: hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát trí kiến giúp mình mở sáng trí tuệ, giải thoát khổ đau thì không quan tâm...
Lưỡi, thân, ý cũng như vậy, cứ đuổi theo vị trần, xúc trần, pháp trần mà quay lăn trong vòng sinh tử vô thường, quên mất cội nguồn tâm tính chân thật xưa nay.
Vua Trần Thái Tông nhắc mình hằng sám hối nơi sáu căn, là khiến mình buông xả, không đắm mê theo sáu trần, tức trở về ông Phật của chính mình.
Đây là một pháp sám hối rất có nhiều ý nghĩa sâu xa và thực tế. Chúng ta sám hối thực sự và hành theo đúng đắn thì bảo đảm tâm thanh tịnh, tội không sinh, là chuyển mình từ trong thế gian mê lầm trở về tính giác, liền gặp Phật.
Trong các kinh A Hàm, Phật thường gọi sắc là thức ăn của mắt, tiếng là thức ăn của tai, mùi là thức ăn của mũi...
Mắt thiếu sắc là nó đói, tai thiếu tiếng là nó đói, phải chạy đi tìm để ăn, suốt ngày luôn chạy tìm không dừng, chẳng mấy lúc được yên. Ngồi một mình thiếu sắc, thiếu tiếng thì cảm thấy buồn, phải mở nhạc, xem ti-vi cho vui.
Đó là sống theo chiều của cái tôi hư dối, cái tôi sinh diệt vô thường, không phải cái độc tôn mà Phật muốn nhắc.
Ý Phật muốn nhắc mỗi người, phải vượt ra cái tôi sinh diệt này, phát minh ra cái chân thật nơi chính mình, làm chủ trở lại sinh tử, đó mới chính là Phật, là độc tôn, không có gì ở thế gian có thể sánh kịp.
Đức Phật xuất hiện ở thế gian chính vì điểm trọng yếu này.
Trong kinh A Hàm, khi đản sinh, ngài đã nói đủ bài kệ bốn câu như sau:
"Thiên thượng thiên hạ "
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử ."
Ý nghĩa trong đây rất rõ, tất cả chúng sinh ở thế gian, gồm suốt cả ba cõi đều phải chịu chung sự vô thường sinh tử.
Dù là các vị trời có phước báo, có thần thông, sống vui sướng thời gian lâu, cuối cùng vẫn không thoát khỏi vô thường.
Còn Phật, Ngài đã vượt qua, thân này là thân chót của Ngài, ý nghĩa “độc tôn” là ở chỗ đó, không phải ở cái ngã mấy chục ki-lô này.
Chính đây là: “Một thông điệp muôn thuở cho thế gian”. Nhắc cho thế gian phải tỉnh lại, chớ đắm mê mãi trong cuộc sinh tử vô thường này.
Trích trong: Thông điệp đức Phật ra đời.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
“Thay đổi nhận thức, thay đổi cuộc đời”
Phật giáo thường thức“Đau khổ không phải là kết thúc, mà là tiếng chuông báo hiệu rằng bạn cần nhìn đời từ một góc khác.”
Súc sanh có vãng sanh được không?
Phật giáo thường thứcHỏi: Súc sanh có được vãng sanh không? Hộ niệm cho súc sanh có được không?
Phật dạy lục hòa là gốc của Tăng
Phật giáo thường thứcChữ Tăng tiếng Phạn là Sanga, dịch là hòa hợp chúng, tứ chúng hòa hợp lại là Tăng. Như vậy, sống hòa hợp với nhau gọi là Tăng. Tụi con nhìn lại các nơi có được sự hòa hợp không?
Mỗi phiền não mỗi cách trị
Phật giáo thường thứcPhiền não là vô số. Mà vô số thì không thể trị bằng một thứ duy nhất...
Xem thêm














