Nguồn gốc và ý nghĩa nghi thức "cúng quá đường"

Cúng quá đường là một nghi thức quan trọng không thể thiếu trong mùa an cư kiết hạ hay kiết đông của hàng đệ tử xuất gia. Người viết xin ghi lại đôi nét về lễ nghi quan trọng này để giúp quý Phật tử mới vào đạo hiểu thêm.

Nguồn gốc nghi thức cúng quá đường

Quá Đường, còn gọi là Thượng Đường hay Phó Đường, nơi Tăng chúng đến thọ thực mà tâm không tham trước (theo Từ điển Phật học Huệ Quang, trang 5752). Quá Đường, nghĩa đen: Đường là nhà, Quá là đi qua, nghĩa là chư Tăng đi từ Tăng đường, Khách đường, Tây đường, Đông đường... đến Trai đường để thọ thực, nên gọi là Quá Đường hoặc Phó Đường. Theo sự nghiên cứu của Hòa thượng Thích Huyền Tôn, ngài nhớ đã đọc trong Vạn tục tạng, Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy, quyển 6, và cho biết tài liệu này cho rằng nghi thức cúng Quá Đường xuất xứ tại chùa Từ Ân ở Lạc Dương, tỉnh Hà Nam thuộc triều đại nhà Đường (618-907) Trung Quốc, chứ trước đó chưa có danh từ Quá Đường. Nhà Đường là một triều đại thịnh trị ở Trung Hoa, nhất Cúng Quá Đường là một nghi thức quan trọng không thể thiếu trong mùa an cư kiết hạ hay kiết đông của hàng đệ tử xuất gia. Người viết xin ghi lại đôi nét về lễ nghi quan trọng này để giúp quý Phật tử mới vào đạo hiểu thêm.

Quá Đường, còn gọi là Thượng Đường hay Phó Đường, nơi Tăng chúng đến thọ thực mà tâm không tham trước (theo Từ điển Phật học Huệ Quang, trang 5752). Quá Đường, nghĩa đen: Đường là nhà, Quá là đi qua, nghĩa là chư Tăng đi từ Tăng đường, Khách đường, Tây đường, Đông đường... đến Trai đường để thọ thực, nên gọi là Quá Đường hoặc Phó Đường. Theo sự nghiên cứu của Hòa thượng Thích Huyền Tôn, ngài nhớ đã đọc trong Vạn tục tạng, Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy, quyển 6, và cho biết tài liệu này cho rằng nghi thức cúng Quá Đường xuất xứ tại chùa Từ Ân ở Lạc Dương, tỉnh Hà Nam thuộc triều đại nhà Đường (618-907) Trung Quốc, chứ trước đó chưa có danh từ Quá Đường. Nhà Đường là một triều đại thịnh trị ở Trung Hoa, nhất là thời vua Đường Thái Tông (599-649), vị hoàng đế thứ hai của triều đại này trị vì từ năm 626 đến 649, là một vị vua tài ba, đã thiết lập sự cường thịnh của triều đại nhà Đường; đặc biệt, ông cũng là người hỗ trợ mọi điều kiện cho Tam tạng Pháp sư Huyền Trang để dịch thuật Kinh tạng tại chùa Từ Ân ở Trường An.

Nguồn gốc và ý nghĩa nghi thức
Nghi thức ‘quá đường’ đóng góp một phần không nhỏ vào việc thành tựu giới hạnh của chư Tăng Ni trong ba tháng an cư, đồng thời tạo duyên lành cho đàn na tín thí đến chốn tòng lâm phát tâm cúng dường, nghe pháp, và tu tập phước trí.

Thời Phật còn tại thế ở Ấn Độ cũng như các quốc gia theo Phật giáo Nam truyền không có nghi thức cúng Quá Đường mà chỉ theo phương thức “nhật trung nhất thực, thọ hạ nhất túc”, nghĩa là “giữa ngày ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây một lần”, buổi sáng đắp y trì bát vào thành khất thực, sau đó về tịnh xá thọ thực và tọa thiền dưới gốc cây; truyền thống tuyệt vời này hiện nay vẫn còn được áp dụng một cách sống động ở các quốc gia như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia và miền Tây nam Việt Nam. Cho đến khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, rồi sau đó truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam... thì chư tổ đức mới tạo ra nghi thức cúng Quá Đường này như một pháp tu tập, trước để dâng cúng mười phương Tam bảo, sau đó hành giả mới dùng cơm; đây là nghi cách đặc biệt trong việc tri ơn và báo ơn ngay trong bữa ăn của mình. Trước khi ăn phải cúng dường, phải tưởng niệm và sau đó giữ chánh niệm trong lúc ăn; nếu hành giả nghiêm trì và cẩn thận trong bữa ăn như vậy, phước và đức phát sinh và tăng trưởng từ đây.

Nghi thức cúng quá đường và ý nghĩa

Tiếp theo đây, xin nói chi tiết và thứ lớp trong nghi thức Quá Đường. Sau khi hành giả vào trong trai đường, nghe thầy Duy-na nhịp ba tiếng chuông thì chắp tay xá một xá và ngồi xuống; khi nghe một tiếng khánh thì mở nắp bình bát ra, cắm chiếc muỗng quay ra phía ngoài vào cơm in sẵn; sau đó khi nghe chuông, hành giả tay trái nâng bát đưa lên ngang trán, tay phải kiết ấn cam lồ ngang miệng bình bát hay bát cơm để tụng bài cúng dường: “Cúng dường Thanh tịnh Pháp thân Tì-lô-giá-na Phật, Viên mãn Báo thân Lô-xá-na Phật, Thiên bá ức Hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, Cực lạc Thế giới A-di-đà Phật, Thập phương Tam thế Nhất thiết chư Phật, Đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Chư tôn Bồ- tát Ma-ha-tát, Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật; tam đức lục vị, cúng Phật cập Tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”.

Dâng cơm lên trán và bắt ấn cúng dường, cũng được gọi là “cử án tề mi”, tức là đưa lên ngang chân mày để biểu tỏ lòng tôn kính ba ngôi Tam bảo, đây là cung cách cúng dường trong nghi cúng Quá Đường, vừa đẹp vừa trang nghiêm, do vậy mà đại chúng không nên đưa bát cơm quá cao hoặc quá thấp mà phải ngang trán của mình.

Cúng dường xong để bát xuống, liền xoay hướng muỗng vào bên trong, với ý nghĩa, phần cơm dành cho mình, còn trước khi cúng, quay muỗng ra ngoài là để dâng cúng mười phương Tam bảo. Ở đây, người viết xin giải thích một chút về việc kiết ấn cúng dường: Tay phải kiết ấn cam lồ với ngón tay cái đặt lên ngón áp út co sát vào trong lòng bàn tay, ba ngón tay còn lại vươn thẳng lên; ấn cam lồ này là biểu trưng cho lòng từ bi, như hình ảnh của Bồ-tát Quán Thế Âm, tay cầm bình cam lồ, tay bắt ấn để ban rải lòng từ bi để cứu khổ chúng sanh. Tay trái kết ấn Tam Sơn, ngón giữa và ngón áp út co lại, ba ngón còn lại vươn thẳng lên, như ba ngọn núi, tạo một thế kiềng ba chân vững chắc để đặt bình bát cơm vào giữa; ấn Tam Sơn này biểu trưng cho giới-định-tuệ, là ba môn vô lậu học, những môn học giúp đưa hành giả đi vào đường giác ngộ. Ta thấy, trong nghi cách dâng bát cơm cúng dường này đã gói gọn ý nghĩa từ bi và trí tuệ, là hai yếu tố quyết định quan trọng trong đời mình; hạnh phúc hay đau khổ cũng chính từ đây mà có. Từ bi là lòng thương không có điều kiện, và trí tuệ là trí hiểu biết không nhiễm ô; đây là mục đích tối hậu của mọi hành giả, ai thành tựu được pháp hành này, người ấy luôn sống an lạc tự tại dung thông ngay trong hiện tại và mai sau; tất nhiên, con đường dẫn đến giải thoát sinh tử luân hồi đã ngắn dần ở phía trước.

Tiếp đó, Hòa thượng Chứng minh Trường Hạ để một cái chung nhỏ trong lòng bàn tay trái, tay mặt gắp bảy hạt cơm để vào chung, kiết ấn cam lồ và mặc niệm ba lần:

“Pháp lực bất tư nghì.

Từ bi vô chướng ngại.

Thất liệp biến thập phương.

Phổ thí châu sa giới.

Án độ lợi ích tá ha”.

Tiếp theo, đại chúng đồng tụng bài biến thực biến thủy chơn ngôn, mỗi bài ba lần: “Nẳng mồ tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế.

Án tam bạt ra tam bạt rahồng;

Nẳng mồ tô rô bà da, đát tha nga đa da,đát điệt tha.Án tô rô,tô rô, bát ra tô rô,bát ra tô rô ta bà ha;Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng.

Trong lúc đó, Hòa thượng Chứng minh thầm nguyện ba lần: “Nhữ đẳng quỉ thần chúng. Ngã kim thí nhữ cúng. Thử thực biến thập phương. Nhất thiết quỉ thần cộng. Án mục lăng tá bà ha”.

Theo sau là Thị Giả tống thực, đem chung nhỏ ra trước bàn ngoài sân để cúng Đại bàng bằng cách hô to bảy lần: “Đại bàng Kim sí điểu, Khoáng dã quỷ thần chúng, La-sát quỷ tử mẫu, Cam lồ tất sung mãn. Án mục đế tóa ha. (nghĩa là: Chim đại bằng cánh vàng, chúng quỉ thần nơi đồng rộng, mẹ con quỉ la sát, cam lồ được no đủ). Tiếp theo, thầy Duy-na xướng Tăng Bạt: “Phật chế đại chúng, thực tồn ngũ quán, tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu, đại chúng, văn khánh thanh, các chánh niệm. Nam-mô A-di-đà Phật”, (nghĩa là: Phật dạy đại chúng, ăn xét năm điều, nghĩ sai nói chuyện, tín thí khó tiêu, đại chúng nghe tiếng khánh, cùng giữ chánh niệm).

Tiếp đó, tất cả đại chúng hai tay bưng bát cơm đưa lên trán và thầm đọc ba lần: “Chấp trì ứng khí, đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp khí, thọ thiên nhân cúng. Án chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra; (nghĩa là: Tay bưng bát cơm, nguyện cho chúng sanh, Pháp thí thành tựu, nhận của trời người cúng). Ứng cúng ở đây là xứng đáng nhận sự cúng dường của người và trời, chỉ cho bậc A-la-hán, người đã đoạn tận tam độc tham, sân, si và vô minh phiền não. Trong khi cúng Quá Đường ý niệm này khởi lên, mong cho chính bản thân mình và hết thảy chúng sinh sớm chứng đắc A-la-hán và thoát ly sinh tử luân hồi khổ đau. Nghe tiếng khánh để bát cơm xuống và múc ít cơm ra chén để lưu phạn; nghe chuông, bưng chén cơm để trước ngực và thầm đọc: “Dĩ kim sở tu phước, phổ triêm ư quỉ chúng. Thực dĩ ly khổ não, xả thân sanh lạc xứ. Bồ- tát chi phước báo, vô tận nhược hư không, thí hoạch như thị quả, tăng trưởng vô hưu tức. Án độ lợi ích tá ha; (nghĩa là: nay đem phước đã tu, ban cho tất cả quỉ, ăn rồi hết đau khổ, xả thân về cõi tịnh, hưởng phước của Bồ Tát, rộng lớn như hư không, quả tốt như vậy đó, tiếp tục lớn thêm mãi). Lưu phạn là san sẻ phần cơm của mình cho chúng quỉ thần và cho người ăn sau mình; ý nghĩa bố thí, mở rộng tình thương của mình dành cho người bất hạnh, không đủ cơm ăn áo mặc, ý tưởng này giúp cho hành giả nuôi dưỡng từ tâm ngay trong lúc mình ăn. Lưu phạn xong, nghe hai tiếng chuông đại chúng bắt đầu dùng cơm, trước khi ăn, hành giả phải khởi niệm Tam Đề và Ngũ Quán, đây là một nghi cách đẹp và có ý nghĩa của nhà Phật mà hành giả không phải chỉ áp dụng trong khi cúng Quá Đường mà có thể áp dụng trong tất cả các bữa ăn khác của mình trong đời sống. Tam Đề là ăn ba muỗng cơm lạt đầu tiên, muỗng thứ nhất: thầm đọc, nguyện chấm dứt tất cả những điều ác (Nguyện đoạn nhứt thiết ác); muỗng thứ hai: nguyện làm tất cả những việc lành (Nguyện tu nhứt thiết thiện); muỗng thứ ba: nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh (Nguyện độ nhứt thiết chúng sanh). Ý nghĩa Tam Đề này là nói rõ mục đích tối hậu của hành giả tự độ mình là dứt ác, làm lành, đạt đến giải thoát và thực thi hạnh độ tha là giúp đỡ người khác rõ biết đường đi lối về của nhân quả nghiệp báo, ra khỏi tà kiến để chấm dứt đau khổ trong đời sống để rồi cuối cùng cũng đạt đến giác ngộ giải thoát như bản thân mình.Tiếp đến bắt đầu ăn cơm phải tưởng Ngũ Quán: Thứ nhứt: Con xin biết ơn người đã phát tâm cúng dường, sửa soạn những thức ăn này; Thứ hai: Con nguyện nỗ lực tu học, trau dồi giới hạnh để xứng đáng thọ dụng những thức ăn này; Thứ ba: Trong khi ăn, con nguyện từ bỏ lòng tham dục, tham ăn; Thứ tư: Con quán chiếu những thức ăn này như những vị thuốc, để cho thân thể con khỏi bệnh tật; Thứ năm: Con nuôi dưỡng chánh niệm, chỉ vì để thành tựu đạo nghiệp giải thoát giác ngộ mà con xin thọ dụng những thức ăn này. (Nhất, kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nhị, thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Tam, phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Tứ, chánh sự lương dược, vị liệu hình khô. Ngũ, vi thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực). Trong suốt thời gian dùng cơm, hành giả luôn luôn giữ chánh niệm với năm phép quán trên. Thiền ngữ của chư Tổ đã từng cảnh báo chư hành giả về sự quan trọng của phép ăn cơm rằng: “Ngũ quán nhược minh kim dị quá, Tam tâm dị liễu thủy nan tiêu”.

Có nghĩa là “nếu phép ngũ quán được liễu thông thì dù có ăn vàng đi chăng nữa thì vàng đó cũng được tiêu hóa, ngược lại nếu ba tâm kia không hiểu rõ dù có uống nước, nước kia cũng không thể tiêu được”. Hiểu được ý này mà thầy Trụ trì Tu viện Quảng Đức,Thượng tọa Thích Tâm Phương đã từng nhắc nhở hàng đệ tử trước khi dùng cơm trong các kỳ thọ bát Quan Trai rằng:

Mỗi khi nâng bát cơm đầy, Nhớ ơn Tam bảo, ơn Thầy, Mẹ Cha Nhớ người tín thí gần xa Con nguyện sống hạnh vị tha đáp đền.

Ăn cơm xong, lấy tăm xỉa răng và thầm nguyện ba lần: “Tước dương chi thời, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm điều tịnh, phệ chư phiền não. Án a mộ dà, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà nễ, bát đầu ma, câu ma ra, nhĩ phạ tăngthâuđàda,đàrađàra,tốdimalê,saphạha;(nghĩa là: Nhấm tăm dương chi, nên nguyện chúng sinh, tâm tính thuần hóa, cắn nát phiền não). Ngày xưa tăm dùng trong chùa thường được làm bằng cành dương nhỏ, nên gọi là tăm dương. Ăn xong xỉa răng là thời điểm sau cùng của bữa ăn; thân vừa no đủ và tâm tư thư thái, hoan hỷ, không có chút lo lắng phiền não, nên cũng mong cho người khác cũng giống như chính mình.

Xỉa răng xong, nghe thầy Duy-na nhịp một tiếng chuông, đại chúng cùng uống nước, hai tay bưng bát nước cung kính trước ngực và thầm nguyện ba lần: Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanh nhục. Án phạ tất ba ra ma ni sa ha; (nghĩa là: Phật nhìn một bát nước, có tám vạn tư vi trùng, nếu không trì chú này, như ăn thịt chúng sanh). Qua Phật nhãn, Đức Thế Tôn thấy rõ có vô số vi trùng trong một bát nước, một cái thấy mà mãi đến hơn hai ngàn năm sau mới có người phát hiện, đó là vào hậu bán thế kỷ XIX, nhà Sinh vật học người Pháp Louis Pasteur (1822- 1895) khám ra những vi khuẩn gây bệnh qua kính hiển vi. Cũng chính vì bài kệ chú uống nước có tính siêu khoa học này mà nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ XX, ông Albert Einstein (1879-1955) đã không ngần ngại khi tuyên bố:“Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”. Uống nước xong, nghe chuông, đại chúng cùng tụng bảy lần bài Kiết Trai: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án chiếc lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích. Nhược vị nhạo bố thí, Hậu tất đắc an lạc. Phạn thực dĩ ngật, đương nguyện chúng sanh, Sở tác giai biện, Cụ chư Phật Pháp; (nghĩa là: gọi là bố thí, tất được ích lợi; vui thích bố thí, sau được an vui. Thọ thực hoàn tất, nên nguyện chúng sanh, việc làm hoàn mãn, đầy đủ Phật pháp).

Theo sau là nghi thức niệm Phật và kinh hành, đi từ trai đường lên chánh điện, hành giả chắp tay nghiêm trang và từng bước chân kinh hành, miệng niệm Phật trong chánh niệm, vào điện Phật, lễ Tứ Thánh, quỳ xuống tụng bài Sám Nguyện và hồi hướng công đức, đó là hoàn mãn thời Cúng Quá Đường trong mùa An cư. Trên đây là nghi thức Cúng Quá Đường trong thiền môn, được xem là nghi thức dùng cơm trong chánh niệm, áp dụng cho tất cả các bữa ăn khác, hành giả cần phải phải thuộc lòng các bài kệ chú để áp dụng trong bữa ăn để giúp mình giữ gìn chánh niệm, không tạp tưởng, mơ màng trong lúc ăn là mục đích chính.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Để mẹ nói, còn mình giữ tâm an

Phật giáo thường thức 11:07 21/11/2025

“Cứ để mẹ than phiền. Còn con, con sẽ không dao động”.

Cách nhận biết ma chướng trên đường tu

Phật giáo thường thức 09:03 21/11/2025

Nay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo.

Nghiệp chứa ở đâu?

Phật giáo thường thức 08:01 21/11/2025

Một lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng: “Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?”.

Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!

Phật giáo thường thức 17:28 20/11/2025

Việc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.

Xem thêm