Tại sao y cà sa được chắp vá bằng nhiều miếng vải?
Y cà sa hay “Phước Điền Y”, có nghĩa là y phục may với những miếng vá gợi nhớ về những mảnh ruộng làm ra từng miếng cơm mà những Phật tử thí chủ đã cúng dường cho các tu sĩ để có thức ăn nuôi thân để tu hành.
Những tu sĩ Phật giáo là những người xuất gia không nhà cửa, không gia đình và không còn sở hữu bất kỳ tài sản có giá trị nào. Từ thời nguyên thủy Phật giáo, họ phải đi nhặt từng mảnh vải vụn hay quần áo người ta bỏ đi, đem về giặt và may vá lại thành những y phục. Sau đó, họ đem nhúng vào những nước thuốc màu làm từ vỏ cây để nhuộm thành một màu. Thông thường là màu nâu sòng hay vàng nâu.
Thiền sư Nhất Hạnh có kể lại trong một quyển sách là các thầy thời đó cũng thường tự may y và đem nhuộm trong nước màu làm từ vỏ trái măng cụt, nên cũng cho ra màu y nâu sòng.
Còn sự đậm nhạt hay sáng tối của những bộ y không liên quan hay biểu hiện gì về mức độ trang nghiêm hay cấp bậc của những sư thầy hết, kể cả trong thời Đức Phật và thời nay. Ngài Ananda, người anh em họ và là thị giả của Đức Phật đã cắt may y cà sa theo ý của Đức Phật. Những miếng vải vuông hay chữ nhật chấp may thành y thể hiện hình ảnh những miếng ruộng lúa ở vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha). Đức Phật đã đồng ý với thiết kế và ý nghĩa này, nên từ đó y cà sa này trở thành y chuẩn trong giới tu sĩ.
Vì lý do trên, người ta thường gọi y cà sa là “Phước Điền Y”, có nghĩa là y phục may với những miếng vá gợi nhớ về những mảnh ruộng làm ra từng miếng cơm mà những Phật tử thí chủ đã cúng dường cho các tu sĩ để có thức ăn nuôi thân để tu hành.
Sau này, sự khác nhau đôi chút về màu sắc, ví dụ như ở Thái Lan, những tu sĩ mặc áo màu vàng đậm hơn thường là những người theo tu thiền ở trong rừng, điển hình là những tu sĩ tu thiền theo phái tu của thiền sư Ajahn Chah. Ở miền Nam Việt Nam có những tu sĩ Phật giáo Nguyên thủy cũng thường mặc y có màu sắc hơi đậm như vậy.
Y phục chính thức của những tu sĩ Đại Thừa thì có vẻ sáng màu hơn, thậm chí có những phần màu đỏ như ở các nước Đông Á. Và sau này y của những Phật tử Đại Thừa có may phủ cả hai bên vai của tu sĩ chứ phải không chừa một bên vai như y của Phật tử Nam Tông.
Lý do Đức Phật chế ra loại y cà sa chấp vá này là, thứ nhất, để phân biệt y của tu sĩ với y phục của Phật tử tại gia. Thứ hai là làm cho không ai còn tham lam lấy trộm và không ai còn lo sợ bị mất y. (Vào thời Đức Phật cách đây 2.600 năm vẫn còn có nhiều người còn lấy cắp các y phục để mặc hay để bán).
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm