Tâm, ý, thức và “tánh biết”
Xưa nay, một số người xem tâm (citta) là “tánh biết”, cũng có người dịch là “thể biết” hay “biết”.
Có vị cho rằng “tánh biết” đi qua mắt thì gọi là nhãn thức, đi qua tai gọi là nhĩ thức, đi qua mũi gọi là tỉ thức, đi qua lưỡi gọi là thiệt thức, đi qua thân gọi là xúc thức, đi qua ý gọi là ý thức.
Tuy nhiên, việc đi qua 5 căn đầu (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) thì có thể hiểu đơn giản hơn. Bởi 5 căn đầu có thể ví như sợi dây đồng bọc nhựa, còn “tánh biết”, “thức” giống như dòng điện trực tiếp đi vào và phát sinh ra điện (gọi là dây điện vì có điện bên trong). Và cũng bởi như vậy nên 5 căn đầu này xét về bản chất vẫn thuộc (sắc pháp), tức sau khi thân hoại mạng chung nó sẽ hoại diệt, ví như dây điện vô dụng nếu không có điện đi qua.
Vấn đề đáng nói ở đây chính là “ý căn”. Nếu nói tánh biết đi qua ý căn thì mới gọi là ý thức, vậy cũng có nghĩa “tánh biết” vừa là “tâm” (citta) và cũng là “ý”, “thức”?
Thắc mắc này sẽ không thoả mãn khi gọi “tánh biết” là “tâm”. Vì nói rõ ra “Tâm” (citta), “Ý” (mana) và “Thức” (Vinnana) là ba khái niệm riêng biệt. Nếu theo Nam truyền cả ba khái niệm này được cho là đồng nghĩa, thì “Ý” và “Thức” không cần “tánh biết” đi qua mới gọi là “ý thức”.

Trong kinh Pháp Cú nói rõ “Ý dẫn đầu các pháp. Ý làm chủ ý tạo…”.
Như vậy “ý thức” chính là dòng điện rồi thì còn cần dòng điện nào khác đi qua nó nữa hay không?
Khi “ý thức” dẫn đầu và làm chủ thì nó sẽ duyên với các tạng thức khác điều phối các hoạt động của phù trần căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) để trở thành nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức.
Mắt khi tiếp xúc với cảnh sắc thì gọi là nhãn xúc. Chỉ gọi là “nhãn thức” khi nhãn căn nhận biết về cảnh sắc. Nhận biết đầy đủ hay không tuỳ vào khả năng phối hợp của ý thức và những hiểu biết đã lưu trữ trong tàng thức.
Tất cả các căn đều trải qua tiến trình “xúc” với cảnh. Mà “xúc”này thuộc sở hữu biến hành, được kích hoạt bởi thân ngũ uẩn, nên bất cứ hoạt động nào của “xúc” cũng sẽ kéo theo hàng loạt các tâm sở biến hành khác như thọ, tưởng, tư, nhất hành, mạng quyền, tác ý. Trong 12 chi phần nhân duyên cũng chỉ rõ “xúc” làm nhân cho “thọ”. Ngay nơi thọ mà sinh ra khổ, ưu, lạc, hỷ rồi. Cho nên ngay khi “xúc” xảy ra thì phân biệt đã cùng lúc xảy ra.
Còn “tánh biết” nếu được hiểu là “tùng tướng nhập tánh” thì nó thông qua nhãn thức mà xác lập tánh thấy, thông qua nhĩ thức xác lập tánh nghe…
Như vậy dù với bất cứ điều kiện tác động bên ngoài nào, thì tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, tánh biết vẫn thường trực không mất. Vì thường trực không mất dù do bất cứ duyên nào tác động nên nó cũng không phân biệt hay thêm bớt gì với trần cảnh.
Tuy nhiên cái phân biệt hay không phân biệt kia phân tích thì tách rời, nhưng xảy ra tiếp nối trên cùng một dòng trạng thái của tâm mà ý thức không ngừng tạo tác. Vì sự tạo tác ấy liên quan mật thiết đến sự vận hành của thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Ví dụ khi ăn, thiệt thức hoạt động nhận biết về vị, trước đó tỷ thức đã nhận biết về mùi, rồi thức ăn đưa vào xúc thức cũng nhận biết về sự xúc chạm nóng lạnh, cứng mềm… Vậy nếu “tánh biết” tham gia vào hoạt động ăn theo cách nói “ăn biết mình đang ăn thôi” không phân biệt, điều đó vẫn có thể xảy ra trong trạng thái tâm thức nào đó, nhưng sẽ làm ngưng hoặc gián đoạn khả năng nhận biết, phối hợp, phân biệt giữa các thức kia. Chắc chắn ý thức sẽ can dự ngay để điều đó được quân bình trở lại.
Ví dụ thêm cho rõ hơn khả năng phối hợp này. Nếu ta nấu cơm với nước muối thật mặn. Ta đưa bát cơm đó cho người nào đó ăn. Nhãn thức nhìn và nhận biết về cảnh sắc bát cơm màu trắng, nó yên tâm vì nhìn thấy bát cơm không bị mốc, tỷ thức nhận biết cảnh hương không thấy mùi ôi thiu, và khi vị thức đồng thời với xúc thức nhận biết về vị, nhưng bát cơm quá mặn, thì khi ấy lập tức nảy sinh phân biệt “mặn quá”, “sao lại mặn thế này”… Dù nói ra hay thì thầm trong nhận thức thì đã thọ, tưởng và tác ý phân biệt rồi. Khi ấy không thể “khi ăn chỉ biết mình đang ăn” không phân biệt gì được nữa. Vì cơ chế phối hợp của các thức và cấu tạo tinh vi của thân ngũ uẩn không cho phép “tánh biết” phủ trùm trạng thái không phân biệt lên chúng.
Đương nhiên với ý thức, vì làm chủ các căn và thức nên nó không cần phải có “tánh biết” đi qua mới trở thành ý thức.
Dù đối tượng nhận thức chính của ý thức là cảnh pháp, không cụ thể như nhãn thức với cảnh sắc, nhĩ thức với cảnh thanh, tỷ thức với cảnh hương…, nhưng cảnh cụ thể dù biến hiện thế nào cũng không ngoài cảnh pháp, tức đều là đối tượng của ý thức.
Khi thân hoại mạng chung phù trần căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) mất đi (theo đúng diễn trình sinh - trụ - dị - diệt), nhưng do ý thức làm chủ duyên vào trong suốt nhiều kiếp về trước và kiếp này nên mọi nhận biết vẫn chứa trong tàng thức. Do đó, dù phù trần căn mất đi thì tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, tánh biết vẫn không mất đi.
Nhìn vào 12 nhân duyên sẽ rõ, thức quả tái sinh (luân hồi) tạo thành một chuỗi nghiệp quả, cái này là quả nhưng cũng làm nhân cho cái khác phát sinh, kéo dài trong cả 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai): vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc…
Trong cả một tiến trình tiếp nối không gián đoạn kia, nếu chỉ nhìn nhân quả (các căn trần thức tạo ra) trong hiện tại để kết luận về nghiệp thiện ác thì sẽ rơi vào tà kiến.
Từ vô minh duyên sang hành vốn đã đầy đủ 23 thức quả (thiện, bất thiện) dục giới, 5 thức quả sắc giới, 4 thức quả vô sắc giới. Mang đủ cả 32 thức quả Tam giới này để chuyển vào “thức” rồi duyên vào “danh sắc” (tinh cha trứng mẹ, bào thai…) mà tái sinh trong hiện tại.
Như vậy, nói “ý”, “thức”, “tâm”đồng nghĩa hay tương tác, là một phần không tách rời của nhau thì có thể dễ hình dung. Nhưng nói “tánh biết” đi qua ý căn trở thành “ý thức” thì không thoả mãn các điều kiện như đã nêu ở trên. Vì “tánh biết”nếu đồng nghĩa với “tâm” thì “ý thức” cũng là “tánh biết”, sao phải vướng vào chuyện “đi qua”?
Ví dụ “tâm” và “thức” chứa nhóm, ý làm chủ và tạo tác thông qua tiền ngũ căn, sau khi tiếp xúc với các trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) do có ý tạo tác mà chuyển vào thức chứa nhóm. Và cái gì được lấy ra từ thức chứa nhóm của mắt thì khởi so sánh, phân biệt nên gọi là nhãn thức. Vì có những chúng sinh kiếp này vừa sinh ra đã mù cả hai mắt, không có nhãn căn để ý thức nương vào tạo tác trong kiếp hiện tại, nên không có nhãn thức (tiếp xúc cảnh sắc và khởi phân biệt), nhưng tánh thấy chứa trong tạng thức không phải không có, nên nếu tái sinh ở kiếp sau có thể họ lại có 2 mắt hoàn chỉnh.
Nếu xem “tánh biết” chỉ là biết không phân biệt, thì khi (nếu) có các tác động quyến rũ nam nữ xảy ra, cái gì sẽ chen vào thức xúc chạm để không dẫn đến các hành vi tình dục?
Khi ấy “tánh biết” dù với hành vi tình dục cũng chỉ dừng ở việc “rõ biết như vậy”, như ăn nếm vị, như mũi ngửi hương, như tai nghe âm thanh, như thân xúc chạm…, có được không?
Nếu tất cả các tánh kia bình đẳng, vậy có thể nói đang xúc chạm cơ thể biết mình đang xúc chạm cơ thể được không?
Nếu việc nghe, ngửi, nếm nói được, nhưng xúc chạm thân xác không nói như thế được thì cái gì “có lực” chen vào để cản trở tánh biết kia? (Còn tiếp, đăng vào ngày mai, 15/6)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Làm thế nào để giúp vong linh người thân bị tai nạn, bị bệnh đột ngột qua đời?
Phật giáo thường thứcTrong thời gian gần đây, đột nhiên xảy ra một số tai nạn, hiện nay có rất nhiều người đang đặc biệt quan tâm đến một vấn đề đó là: nếu người thân của mình bất ngờ gặp tai nạn, những người còn sống rốt cuộc nên làm những gì?
Chánh niệm đôi khi chỉ đơn giản là nhớ ăn cơm trước khi quá đói
Phật giáo thường thứcNgười ta nói nhiều về chánh niệm, về sự tỉnh thức, về việc sống trong giây phút hiện tại. Nhưng nếu ta chịu khó ngồi xuống, hít thở ba hơi thật sâu, quán chiếu thật kỹ, ta sẽ thấy rằng chánh niệm đôi khi chỉ đơn giản là… nhớ ăn cơm trước khi quá đói.
Cái giá của thiền tập
Phật giáo thường thứcKhông khổ nào bằng khổ ngồi thiền. Không mệt mỏi nào bằng mệt mỏi ngồi thiền. Nhưng người ngồi thiền được trả giá rất xứng đáng, vì đã kinh nghiệm được già, đau, chết trong từng giây phút.
Xem thêm















