Thập như thị (Phần 2)
Đây là mười điều chỉ cách quán chiếu thực chứng được một sự vật, một sự kiện đúng y như sự hiện thực của chính nó. Nói cách khác, đây là mười cách nhìn vào mười khía cạnh khác nhau của một vật hay một việc gì ngõ hầu đạt tới nhận thức được đầy đủ và trọn vẹn sự vật hay sự kiện ấy.
1. Thập như thị
Đây là những chi tiết của việc quán chiếu thâm hậu gồm đủ ba yếu tố quán thông (hiểu thấu suốt liên hệ khía cạnh này với khía cạnh khác), quản triệt (hiểu thấu tất cả mọi khía cạnh và tận cùng từng khía cạnh) và quán xuyến (khai thác ứng dụng tất cả mọi khía cạnh vào mục tiêu duy nhất để gia tăng hiệu năng tối đa, tối hảo).
Quán chiếu như vậy mới đạt được định lực và tuệ lực, nếu không thì chưa đạt tới sự hội nhập Chân Như, nhận thức đúng được chính nó là cái gì. Khi tâm thức của hành giả đã đạt tới trình độ chứng nhập thực tánh của vạn pháp hành giả mới có Phật trí, thường gọi là Nhất thiết chủng trí.

Mười điều như thị liên hợp với nhau trong một sự vật, một sự kiện đối tượng của quán chiếu gồm có:
- Như thị tướng: Hình dạng, sắc thái của nó vốn như thế.
- Như thị tánh: Bản chất của nó vốn như thế.
- Như thị thể: Biểu hiện của nó vốn như thế.
- Như thị lực: Khả năng tác dụng của nó vốn như thế.
- Như thị tác: Sự khởi lên ứng dụng của nó vốn như thế.
- Như thị nhân: Nguyên do của nó vốn như thế.
- Như thị duyên. Cơ hội liên hệ của nó vốn như thế.
- Như thị quả: Thành tựu kết cục của nó vốn như thế.
- Như thị báo: Ứng đáp của nó vốn như thế.
- Như thị bổn mạt cứu cánh đẳng: Toàn bộ gốc rễ ngọn ngành nền tảng rốt ráo của nó như thế.
Mười cách nhìn này là chân lý, là sự hiện thực thể tánh của vạn pháp, cũng gọi là bản tánh hay chân tướng tùy theo từng trường hợp sử dụng. Đây là pháp quán thâm hậu có hiệu năng linh tri diệu ứng, chủ thể quán chiếu đã hội nhập thành một với đối tượng sự quán chiếu, theo ngôn từ Phật học là năng quán và sở quán đã hội nhập hòa đồng viên dung với nhau thành Một; chữ Hán gọi là nhất chân hay nhất như, chân như. Đây là sự thực hành cao diệu uyên áo của chư Phật, Đại Bồ tát. Hai hàng Thanh Văn và Duyên Giác chưa thể lãnh hội được trọn vẹn pháp môn này (2).
(còn tiếp).
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
Dành cho bạn
Tinh hoa văn hiến Kinh Bắc trong dòng chảy văn hóa Phật giáo Việt: Danh nhân Vũ Trinh và thủ khoa – nghệ sĩ thị giác Vũ Tú
Nghiên cứuQua hai tấm gương: danh sĩ Vũ Trinh và thủ khoa Vũ Tú – một trí thức cổ; một nghệ sĩ hiện đại – chúng ta nhìn thấy tính đa dạng, tính linh hoạt của Phật giáo Việt Nam: không bó hẹp vào thiền viện, vào kinh kệ, mà lan tỏa vào văn hoá, triết học, mỹ thuật, đời sống thường nhật. Họ – mỗi người theo cách riêng – đều góp phần làm giàu cho di sản văn hóa Phật giáo Việt, giúp đạo Phật vừa giữ được cốt cách tâm linh, vừa hòa nhập với dòng chảy lịch sử, xã hội, nghệ thuật.
Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam
Nghiên cứuKinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứuCó thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứuPhật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Xem thêm














