Ba đặc điểm của đời người: Khổ - Vô thường - Vô ngã
Theo đạo Phật, muốn diệt khổ, phải biết đến khổ, muốn hiểu đời, phải biết nhìn, quan sát đời...
Nhất tâm, Tuệ học là phương pháp dùng trí tuệ để quán sát các pháp đúng với ba pháp ấn: Khổ, Vô thường và Vô ngã. Chính nhờ sự quan sát chơn chính, đúng với thực tướng này mà mười kiết sử được đoạn trừ, và con người được giải thoát và giác ngộ.
Theo đạo Phật, muốn diệt khổ, phải biết đến khổ, muốn hiểu đời, phải biết nhìn, quan sát đời. Và chính tuệ học giúp chúng ta có một quan niệm chính xác về con người và cuộc đời. Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắng và tối hậu trong đạo Phật.
Giới - Định - Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người, định căn và tuệ căn là hai sức mạnh tiềm ẩn trong mọi cá nhân, định lực và tuệ lực mà con người chúng ta quên không biết khai thác.
Tam học giới định tuệ là cốt lõi của Phật giáo

Phương pháp Giới - Định - Tuệ cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa ba môn học này như cái đỉnh ba chân, không thể thiếu môn học nào, và chỉ có một sự giáo hóa hay giáo dục toàn diện cả Giới - Định - Tuệ bao hàm cả năm phương diện thể xác, tình cảm, tính tình, tri thức và trí tuệ mới đào tạo được những con người thăng bằng, bình tĩnh, đủ sức đối trị với những nghịch cảnh của một thế giới hiện đại đầy cam go thử thách.
Phương pháp Giới - Định - Tuệ cũng nêu rõ sự phát triển của một tâm sở, khi được biến chuyển từ dục giới sang sắc giới, vô sắc giới và qua siêu thế giới như tầm tâm sở, Vitakka biến thành Appanà vitakka, tức là an chỉ tầm, tức là tầm với khả năng định lực. Lên siêu thế giới, Vitakka biến thành Sammàsankappa hay Chánh tư duy trong Bát Chánh Đạo.
Về huệ căn tâm sở cũng vậy, ở dục giới, trong bất thiện tâm thì được gọi là Ditthi hay là tà kiến. Cũng ở dục giới trong Tịnh quang tâm, thì được gọi là nàna hay Trí. Lên đến sắc giới và vô sắc giới, Trí được gọi là Abhinnà hay Tăng thượng trí trong lục thông, được gọi là Vìmansàiddhipada hay Tư duy thần túc trong bốn thần túc, được gọi là Huệ căn, huệ lực trong năm căn, năm lực được gọi là Dhamm vicaya, Trạch pháp giác chi trong Thất giác chi và được gọi là Sammàditthi, Chánh tri kiến trong Bát Chánh Đạo ở siêu thế tâm.
Như vậy sự chuyển biến của một tâm sở được thành tựu tùy thuộc vào sự tiến triển của từng tâm sở và nghị lực tu trì của từng cá nhân ngay trong hiện tại và trên cương vị hiện tại của mình. Cho nên khả năng hướng thượng của con người thực sự rất tốt đẹp, nếu chúng ta có đầy đủ ý chí và nghị lực muốn cải thiện đời sống của chúng ta.
Trích "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
“Thay đổi nhận thức, thay đổi cuộc đời”
Phật giáo thường thức“Đau khổ không phải là kết thúc, mà là tiếng chuông báo hiệu rằng bạn cần nhìn đời từ một góc khác.”
Súc sanh có vãng sanh được không?
Phật giáo thường thứcHỏi: Súc sanh có được vãng sanh không? Hộ niệm cho súc sanh có được không?
Phật dạy lục hòa là gốc của Tăng
Phật giáo thường thứcChữ Tăng tiếng Phạn là Sanga, dịch là hòa hợp chúng, tứ chúng hòa hợp lại là Tăng. Như vậy, sống hòa hợp với nhau gọi là Tăng. Tụi con nhìn lại các nơi có được sự hòa hợp không?
Mỗi phiền não mỗi cách trị
Phật giáo thường thứcPhiền não là vô số. Mà vô số thì không thể trị bằng một thứ duy nhất...
Xem thêm














