Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương... (kỳ cuối)
Tôi gặp Cụ ở Viên Minh đầu năm 2001, khi sương sớm còn đọng trên bờ đê sông Hồng sau chùa. Hai mươi năm trôi qua, hình bóng ấy vẫn nguyên vẹn: một vị “nông tăng” gầy gò, áo nâu guốc mộc, tay thoảng mùi đất vườn, mắt sáng sau cặp kính đã xước.
Người ta gọi Cụ là Đức Đệ tam Pháp chủ, còn chúng tôi - những kẻ đến học và ở kề bên - quen miệng gọi là “Cụ”. Từ buổi ấy, tôi được sống trong nếp sinh hoạt của chùa Ráng, ghi nhớ từng tiếng chuông, ngọn nến, hơi trà, tiếng đọc chữ Nho li ti giữa gian tổ đường lờ mờ ánh sáp.

Giản dị như người ông
Cụ thức dậy từ một đến ba giờ sáng, dậy để trông chùa giữa miền thôn dã, dậy để đọc sách. Chùa có điện nhưng hiếm khi thắp; Cụ thích ngọn nến nhỏ, lửa mềm, sáng vừa đủ để chữ trong kinh Hoa Nghiêm nổi lên, như hoa sen, như vỏ ốc mở từng vòng. Bốn giờ, Cụ tự tay đánh chuông khai tĩnh. Chúng tôi - thầy Thanh Tuyên, Di Sơn, Minh Thiện - nhập vào thời công phu sớm: người thắp hương, người pha ấm trà mạn hay sâm bột cúng Cụ, rồi cùng ngồi niệm Phật. Có khi sau đó Cụ cho “in bùa”: tấm ván khắc chú Chuẩn Đề áp lên giấy tiền vàng mỏng người đi lễ để lại; mỗi lần ấn dấu, Cụ niệm “Án ma ni bát minh hồng”. Dân quanh xã Quang Lãng đến xin, họ gọi vui là “bùa bách bệnh”, còn Cụ bảo đó là phương tiện khuyên người ta hướng thiện, yên lòng mà tu.
Sớm mai, công việc chính là duyệt kinh. Hòa thượng Tịnh Hạnh nhờ Cụ xem lại bản Việt dịch Hoa Nghiêm, Cụ ôm chữ Hán, chúng tôi đọc tiếng Việt. Nghe đoạn nào chưa thuận, Cụ chậm rãi gợi ý cách biểu đạt khác, chỉ dăm chữ mà sáng ra cả một tầng nghĩa. Lửa nến phập phồng, tiếng đọc đều đều, mùi trà mạn thơm nhẹ; trong gian tổ, Cụ cặm cụi theo từng hàng chữ nhỏ như tơ, đôi khi dừng lại nhìn xa xăm rồi khẽ nói: “Ở đây nên nói thế này”. Bữa sáng kết lại bằng bát mì nóng với rau trong vườn.
Chùa Ráng thời ấy sống giản dị. Ba ngày mới có chợ Trầm cách chùa ba cây số, thầy Lượng - vị đương gia - ghé mua đậu phụ, còn lại chủ yếu là rau vườn: ngót, su hào, mùi tàu; đến mùa măng, mấy thầy trò vừa đi vòng rào dậu, vừa bẻ măng đem về luộc, xào. Sau bữa trưa thanh đạm, Cụ không sai ai ra vườn bao giờ, “ai ngồi học thì cứ học”. Nhưng Cụ vẫn lặng lẽ vác cuốc đi kiểm tra cây cối, đánh gốc, vun xới; hễ Cụ đi, chúng tôi tự giác theo sau. Vườn chùa rộng, trồng khoai sọ, rong riềng, nhãn, vải; đến vụ, học trò trèo bứt nhãn, sấy làm long nhãn, Cụ ướp vào chóe để cuối năm làm quà cho khách tăng phương xa.
Cụ dạy theo lối gia giáo. Lớp học không đông, chừng năm bảy đến mươi người, từ Hà Tây, Hà Nam, Hải Dương, Ninh Bình, Hưng Yên, Nam Định… Người đến Ráng không chỉ để học kiến thức Phật học - Sa-di thượng hạ, Tứ Phần Như Thích, Quy Sơn Cảnh Sách, Phật Tổ Tam Kinh… - mà còn để ở kề một bậc cao tăng ẩn mình giữa làng quê, nhìn Cụ sống mà học. Có hôm chúng tôi xin đọc giới bản trong ngày bát quan đầu; ấp a ấp úng vài dòng, Cụ nghiêm mà hiền: “Học thuộc đã”. Thế là sớm tối bi bô, chữ nào khó Cụ giảng; nửa tháng, giới bản trôi như nước; rồi lên Như Thích, Cụ cắt nghĩa từng đoạn, dần dần bắt tự cắt nghĩa.

Một buổi khác, Cụ đánh chuông xong, nghe Di Sơn thỉnh “Thượng chúc đương kim hoàng đế” theo văn cổ, Cụ khẽ sửa: “Bây giờ đâu có hoàng đế, phải chúc Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Thủ tướng… cho hợp thời”. Pháp giới thì mênh mông nhưng chân Cụ luôn đứng trên mặt đất, như nét chữ “Ni” trong câu “Án ma ni bát minh hồng”. Cụ ví: “Nhìn giống cái bừa!” - bốn răng bừa cắm vào ruộng - người nông dân trong Cụ chẳng bao giờ rời.
Nếu hỏi Cụ để lại gì, tôi nghĩ là một nếp sống: sáng chuông, tối kệ; học mà làm, làm mà học; giữ giới mà vui; dạy người bằng cách tự sửa mình.
“Phổ Tuệ chính là con đây!”
Đầu 2001, Cụ xây “Thọ Quang Phật tháp” trước chùa. Đất ruộng, không cọc bê tông, chúng tôi đóng cọc tre bằng vồ gỗ, tre chùa dựng giàn giáo. Cụ tám mươi lăm tuổi vẫn leo giáo kiểm tra mỗi ngày; phó cả xây đến tầng năm, tầng sáu, sợ, bỏ dở; Cụ mời thợ khác làm tiếp. Kinh phí chắt chiu từ công đức dân quê, Cụ nhặt cả mảng xi măng rơi, giã mịn, sàng lại để dùng; chữ Hán đặt tên tháp, câu đối, chữ Phạn bốn phía - đều do tay Cụ viết lông cho thợ gò theo. Tháp xong, đứng đó như một lời chứng lặng lẽ cho đức kiên trì.
Buổi chiều sau công phu, Cụ ăn cơm với chúng tôi, kể chuyện cũ. Có hôm Cụ vừa đội nón, áo mưa, chân dính bùn cày về, khách đến hỏi “Hòa thượng trụ trì có nhà không?”, Cụ cười: “Cụ vẫn ở chùa, mời các ông vào”. Lát sau Cụ chỉnh y phục ra tiếp, cả đoàn mới ngỡ ngàng: “Nông dân” ngoài cổng chính là Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Có vị túc tăng trong Nam từng hỏi thăm: “Ngoài Bắc có cụ Phổ Tuệ giỏi chữ Hán mà giỏi cấy cày, Cụ biết không?” - “Phổ Tuệ chính là con đây!” - Cụ cười, hàm răng nhuộm cánh kiến đen bóng.
Cụ kể chuyện chùa Viên Minh xưa ở bên kia sông Hồng, vì đắp quai đê tránh lũ nên dời về chỗ hiện nay. Tổ khai sáng Nguyên Uẩn - môn nhân Đa Bảo - dựng chùa, lập Pháp hội Viên Minh với tông chỉ: “Viên sự minh lý, viên lý minh tâm; viên tâm đạo đạt, minh đạo thành công…” Tổ viết chữ đẹp, vẽ tranh giỏi: Hoa Nghiêm tám mươi mốt quyển, Pháp Hoa hai mươi tám phẩm, Quy Nguyên Trực Chỉ, Nhật tụng… đều do tay Tổ viết để khắc ván in; cửa võng trên Tam Bảo là Tổ dựa Kinh Hoa Nghiêm vẽ lọng báu, rèm châu; tháp Thập Pháp giới Cụ xây sau này cũng theo bản đồ họa trong kinh ấy. Những bộ chữ Đỉnh, câu đối xưa đục vào tường, Cụ đều dập lại, khắc gỗ treo đúng vị trí; Cụ thuộc lòng, đọc đâu cũng nhớ.
Dòng truyền thừa tiếp nối: đệ tử Tổ Nguyên Uẩn có Quảng Truyền, Quảng Thành, Quảng Tốn; Sư phụ Cụ - Tổ Quảng Tốn - trụ trì Viên Minh đến 1961. Chiến tranh, bốt Pháp lùng sục, có khi thầy trò phải nằm im trong bụi rậm bên mương, thở cũng không dám mạnh. Cụ từng an cư Quán Sứ, trụ trì Linh Ứng Hải Phòng những năm 1952-1953, bạn học có Cụ Trí Tịnh, Thanh Kiểm, Thanh Huấn… Người đồng thời đi Nhật du học; Cụ ở lại hầu thầy già, giữ chốn Tổ. “Bỏ một cơ hội đi xa”, Cụ nói, “nhưng được ở gần thầy, gần chùa”. Vậy là “nông tăng” nơi Ráng thành hình: sáng đọc kinh, chiều cuốc đất; tay bừa tay cày, vai gánh nước giã gạo, mà kinh điển vẫn tinh tường: Lăng Nghiêm Chính Mạch, Pháp Hoa Đề Cương, Khởi Tín, Bát Nhã… Những bản dịch, biên tập sớm của Cụ - Bát Nhã Dư Âm, Đề Cương Kinh Pháp Hoa - sau này thành tài liệu học của Tăng Ni Hà Tây.
Cụ ít thích rời chùa, nhưng Phật sự thì không lảng tránh. Năm 1993, sau nhiều lần thỉnh mời, Cụ nhận làm Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hà Tây. Cụ làm hạ chủ ở Võ Lăng, Chùa Thầy, Hội Xá…; trên pháp tòa, Cụ giảng theo lối cổ: cầm sách chữ Hán đọc cho chép, đến đoạn cần thì giảng kỹ; môn Duy thức nhiều chỗ trừu tượng mà vào tay Cụ lại sáng, gọn. Cụ truyền giới Bồ-tát, làm Hòa thượng đàn đầu ở các đàn giới Hà Tây, Hà Nam.
Có lần đến giờ truyền giới, Ban tổ chức mới kết đại giới, chưa kết giới tràng; Cụ bảo phải kết từ trong ra ngoài: “Giới tràng như áo trong, đại giới là áo ngoài”. Giải hết mà kết lại cho đúng luật, rồi mới truyền. Người nghe xuôi tai vì đó không phải thói lệ mà là kỷ cương giới luật.
Pháp hội, Cụ giảng Địa Tạng, bình văn âm Hán được xướng lên, Cụ gõ kiểng, cắt nghĩa từng chương; lời giảng không rườm rà, nói thẳng cách tu để chuyển hóa. Đàn quy y Tam bảo, Cụ đọc chậm rãi, rõ ràng; thiện nam tín nữ đồng thanh lặp theo; sau một mùa, lớp lớp Phật tử đầu chít khăn vàng đến chùa, kính Cụ như thầy truyền giới của mình.
Cụ làm Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây, trực tiếp định hướng, giảng dạy, chấm thi, trao bằng. Cụ tham dự Đại hội Mặt trận; buổi tối ghé Trấn Quốc, ngồi thuyền Hồ Tây dùng cơm chay. Nhưng Cụ ghét nhất là ra Quán Sứ ở lâu: “Ở Ráng là đủ”, Cụ cười, “tu là việc đời đời”.
Năm 2007, khi được suy tôn lên ngôi Pháp chủ, Cụ được đón rước trang nghiêm từ Quán Sứ về Mỗ Lao. Trước biển người tung hoa niệm Phật, Cụ nghẹn lời: “Phúc phải do tu mà có; phúc nên tích chứ không nên tán; hưởng quá thì phúc thành họa. Chúng tôi làm gì để xứng với sự cung ngưỡng này?” Rồi Cụ lặng lẽ về Viên Minh, không ra Quán Sứ ở thường.
Từ đó, Tăng Ni Hà Nội, ba miền Bắc Trung Nam, vào đầu hạ, cuối hạ, tất niên… đều về chùa Ráng thỉnh pháp Cụ. Những lời răn của Cụ giản dị như lúa ngoài đồng: giữ đường chính đạo giữa mạt pháp; an cư để hiểu giá trị bình yên; sống qua loạn lạc mới thấy quý hòa bình. Ở ngôi vị tối cao, mà Cụ vẫn như trước: đạm bạc, cần kiệm, mộc mạc, gần gũi. Với dân Quang Lãng, Cụ mãi là sư cụ chùa làng: bộ áo nâu, đôi guốc mộc, hai thời công phu, bốn mùa thắp hương, lặng thầm giáo hóa.

Tôi nhớ buổi tối ở Ráng: bảy, tám giờ Cụ mắc võng xem thời sự rồi ngủ; đêm yên, có khi Cụ lẩm bẩm điều vừa phát hiện trong kinh; có khi đi lại trong chùa, trò chuyện với con chó, con mèo; sáng sớm, chuông khai tĩnh lại vang. Có những câu trong khoa cúng Tổ Nguyên Uẩn Cụ thuộc lòng; đọc tới “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam”, mắt Cụ rơm rớm - đời sau phải hơn đời trước, lời ấy, Cụ gửi cho học trò.
Cụ kể về ngày xưa chạy giặc bên bờ mương; kể chuyện Tổ vắt chân chữ ngũ, giấy dó kê đầu gối, viết Hán tự thẳng tắp như in; kể chuyện “đức Ông ốp” dẫn đồng nhân cầm bó hương cháy quanh khu đất chùa mà thành một khoảnh vuông vức như có thước dây. Những câu chuyện tưởng giản dị, mà làm nên Viên Minh hôm nay: cột kèo, cửa võng, ván in, chữ Đỉnh, câu đối, tháp Phật, tháp Thập Pháp giới, cả ruộng khoai rong riềng sau chùa… đều thấm dấu tay, dấu chân, dấu chữ của Tổ và Cụ.
Cụ không nhận mình là Pháp chủ: “Chức ấy chỉ Phật Tổ mới xứng”. Cụ thuộc về cây nhãn sau nhà, về chiếc tháp “Thọ Quang” xây bằng cọc tre với xi măng nhặt lại, về tiếng chuông bốn giờ mùa đông, về lớp học năm bảy người trong gian nhà cấp bốn kê bàn ghế gỗ cũ, về ấm trà mạn sáng, về bát mì rau ngót, về chữ “Ni” như cái bừa trên câu chú.
Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương
Ngày Cụ đi, vào giờ Dần sau rằm tháng Chín, người ta nói Cụ “nhẹ nhàng ra đi trong tiếng niệm Phật Di Đà”. Tôi tin vậy, vì cả đời Cụ là một câu niệm dài, vững như nhịp bừa kéo qua thửa ruộng ướt, để lại những rãnh nước thẳng hàng.
Bấy giờ nhớ lại văn điếu thường đọc trong những buổi tiễn biệt, nghe như chính Cụ viết cho mình và cho chúng tôi, những người ở lại:
“Than ôi hai chữ vô thường, Đương vui bỗng hóa đau thương não nùng… Tử sinh hai chữ nan đào, Như nung gan sắt như bào lòng son.”
Nhưng sau tiếng than là một lời trao gửi: “Cho Tổ quốc vững bền độc lập, cho hòa bình đạo Phật dài lâu”. Cụ - người “nông tăng” ở Ráng - đã dạy chúng tôi cách gieo một thửa ruộng đời: cắm cọc tre cho chắc, sàng sỏi xi măng cho mịn, viết từng nét chữ cho ngay, dậy sớm châm nến đọc kinh, sửa một chữ cho đúng, thỉnh một tiếng chuông cho tròn, giữ một lời nguyện cho bền. Đời tu hành có lúc chỉ là những việc nhỏ vậy. Nhưng nhỏ mà bền, bền mà sáng, sáng mà không ồn - ấy là cách Cụ đi qua hai triều vua, qua chiến chinh, qua đổi thay, để “Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương”.
Tôi rời Viên Minh sau một mùa ở lại. Trên bờ đê sau chùa, gió sông Hồng vẫn mát, tiếng chuông sớm vẫn vang. Trong tôi, Cụ vẫn đang đi trong vườn, tay nâng một gốc nhãn vừa đánh chuyển, ngón tay dính đất, mắt nhìn xa như nhìn vào một hàng chữ Hán chưa viết xong. Nếu hỏi Cụ để lại gì, tôi nghĩ là một nếp sống: sáng chuông, tối kệ; học mà làm, làm mà học; giữ giới mà vui; dạy người bằng cách tự sửa mình. Và một cây tháp đứng yên trước chùa, tên “Thọ Quang” - ánh sáng của sự sống dài lâu - được xây từ tre đồng bằng, vữa xi măng nhặt nhạnh, và trái tim một bậc chân tu.
____
* Thầy Di Sơn - pháp tự Đức Hải - là Giới tử, học đồ của Đức Đệ tam Pháp chủ - Đại lão HT.Thích Phổ Tuệ
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương... (kỳ cuối)
Xiển dương Đạo phápTôi gặp Cụ ở Viên Minh đầu năm 2001, khi sương sớm còn đọng trên bờ đê sông Hồng sau chùa. Hai mươi năm trôi qua, hình bóng ấy vẫn nguyên vẹn: một vị “nông tăng” gầy gò, áo nâu guốc mộc, tay thoảng mùi đất vườn, mắt sáng sau cặp kính đã xước.
ADN của Phật trong mỗi chúng ta
Xiển dương Đạo phápThầy dạy: “Con Phật thì phải có ADN của Phật”. Những lời ấy nghe tưởng như ví von, nhưng càng suy ngẫm càng thấm.
Hạnh nguyện phước đức nhất là được phụng sự Phật pháp
Xiển dương Đạo phápTrong đời sống nhiều biến động, người ta dễ tìm kiếm phước đức qua những hình thức bên ngoài: vật chất cúng dường, công quả vài ngày, hay những hành động thiện lành tức thời.
Nhà sư đi học
Xiển dương Đạo phápBuổi sáng, trong sân chùa, mấy chú tiểu ôm cặp sách lên vai, bước ra khỏi cổng chùa để đến lớp. Hình ảnh ấy gây xúc động lạ - giữa dòng người tấp nập, những chiếc áo nâu nhẹ lướt qua phố, như nhắc rằng trong đời sống hiện đại, đạo và đời vẫn có thể đi cùng nhau, trong cùng một nhịp học hỏi.
Xem thêm














