Đạo hiếu của dân tộc
Đạo hiếu nói cụ thể là bổn phận, trách nhiệm của mỗi người con trong gia đình đối với ông bà, cha mẹ, và nói rộng ra là nền tảng văn hoá phụng dưỡng và kính thờ tổ tiên của người Việt.
Phụng dưỡng là lập công và phụng thờ là lập đức. Làm trọn vẹn cả hai điều ấy thì mới viên mãn công đức trong một đời người.
Muốn đền ơn cha mẹ, mỗi người con phải ý thức “lập công”, tức thành tựu sự nghiệp trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Vì thành công mới có đủ điều kiện vật chất để chăm nuôi phụng dưỡng cha mẹ, nhất là khi cha mẹ tuổi cao sức yếu.
Bên cạnh việc lập công để đời sống vật chất sung mãn, no đủ là việc lập đức. Lập đức là tích đức hành thiện, nuôi dưỡng lòng hiếu kính, phụng thờ (thờ cha kính mẹ). Lòng hiếu kính, phụng thờ ấy được dẫn dắt bởi thiện tâm, và lòng tử tế thì mới trở thành đạo lý của đạo hiếu.
Thiện tâm là nếp sống ăn hiền ở lành. Tử tế là biết sống và quan sát cẩn thận trong từng việc nhỏ để không gây hại cho mình và cho người.
Ca dao có câu: “Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con”. Chính vì vậy, hành thiện cũng chính là tích đức.

Không phải ngẫu nhiên Đức Phật dạy: “Hiếu dưỡng mẹ và cha, là vận may tối thượng”(Kinh Điềm lành tối thượng, Kinh Tập, Tiểu bộ kinh).
Vận may tối thượng cho một con người, một gia đình, một dân tộc không gì khác hơn là đạo hiếu, đạo của sự chăm nom, phụng dưỡng và kính thờ.
Người Việt hay nhắc tới chữ phúc và chữ đức. Cho nên chúng ta thấy rất rõ việc lập công để tích dương phúc, tạo ra của cải sung túc phụng dưỡng cha mẹ, còn lập đức thì kính thờ tổ tiên, tích âm đức, làm nảy nở thiện tâm, hiếu đạo.
Chính vì vậy, mạch nguồn văn hoá của người Việt chính là phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên, sống phải biết tri ân, báo ân, “uống nước nhớ nguồn”.
Từ văn hoá ấy mà người Việt luôn sống trọn vẹn với từ “âm đức”. Âm đức cũng đôi khi được hiểu là “mả dày” hay “phúc ấm tổ tiên”.
Ngoài ra “âm đức” cũng được người ta hiểu rằng một người tích đức hành thiện mà âm thầm, không khoe khoang thì sẽ tích luỹ được âm đức.
Nói ở nghĩa nào thì đối với người Việt “âm đức” cũng đều là việc tích đức hành thiện.
Âm đức là nguồn năng lượng tâm linh thiêng liêng cao cả mà tổ tiên luôn phù trì cho con cháu. Con cháu khi nhớ ơn lại không ngừng tu tâm dưỡng tính, nhằm báo ân tiên tổ và trợ giúp cho những hương linh bơ vơ, không nơi nương tựa, để cuộc sống vợi dần đi oan trái.
Âm đức thiêng liêng như lời thề sông núi, mà cũng sâu lắng thiết tha như bản văn chiêu hồn mỗi khi tiết Thu sang, để không một chúng sinh nhỏ nhoi nào bị lãng quên trong cuộc sống dù ngắn ngủi này.
Vì vậy xin đừng ngại việc người ta gọi mùa Vu lan báo hiếu là “tháng cô hồn”. Việc lớn của sinh tử từ vua quan đến sĩ dân, thầy tu, ai không trải qua một lần.
Chúng ta thấy, hầu hết những người có công lao lớn với nước với dân đều được nhân dân phụng thờ. Có nghĩa rằng xét trên công trạng ấy mà lập đức. Đức ấy được thiêng hoá, thánh hoá, trở thành điểm tựa sức mạnh tinh thần cho hậu thế noi theo. Nhưng đức lớn ấy có lãng quên được những người dân lam lũ (dân đen, con đỏ) cùng góp công góp sức không?
Người càng có công đức lớn khi ở ngôi cao càng phải hiểu rõ ý nghĩa “Nhân dân bốn cõi một nhà” (Bình Ngô Đại cáo), nếu không phải “một nhà” như thế, khi mất nước thử hỏi nhà nào không tan, ai không ở trong vòng nô lệ, ngai thờ nào không bị đốt phá, mồ mả nào không bị giày xéo?
Vì vậy, đạo hiếu nói cho đủ cũng chính là trung hiếu lưỡng toàn. Tức mỗi người ý thức không làm trái những lời cha mẹ, thầy tổ dạy răn, không hành động phản dân hại nước.
Âm đức cũng là hồn thiêng sông núi, là tinh anh còn lại mà biết bao chiến sĩ đồng bào đã hy sinh thân mình tạo dựng nên.
Chúng ta cùng nghe lại lời của vua Trần Thái Tông, vị vua mở đầu triều đại nhà Trần nói:
“Ta lòng riêng tự bảo: Trên đã không còn cha mẹ để tựa nương, dưới ngại chẳng xứng lòng dân mong đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại: Chi bằng lui về ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu rõ việc lớn sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao?”.
Ở ngôi cao mà vua Trần Thái Tông không quên việc tu tập để đền ơn cha mẹ. Nhưng ngài cũng hiểu rõ, gánh vác việc nước việc dân là lập công và thấu việc lớn sinh tử để đền đáp công ơn cha mẹ chính là lập đức.
Hai việc ấy suy đi nghĩ lại vẫn không thể tách rời. Cho nên khi vua Trần Thái Tông lên núi Yên Tử để tìm Phật, Quốc sư Phù Vân bèn nói: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài” (Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam).
Đồng thời Quốc sư khuyên vua rằng: “Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình”.
Lời trách của Thái sư Trần Thủ Độ càng thêm thấm thía: “Chỉ để lời dạy suông cho đời sau, chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ”.
Nghe xong tâm ý tỏ rạng, nhà vua trở về kinh đô lo việc triều chính. Không luận nghĩa đàm huyền suông hay tự tu giải thoát cho bản thân, khi quốc gia lâm nguy, vua đích thân ra trận, cùng quân dân dốc sức đánh đuổi giặc Nguyên Mông xâm lược.
Sau thái bình, tuy bận việc nước, nhưng vua vẫn dành thời gian để nghiền ngẫm Tam giáo (Phật- Đạo-Nho), mỗi ngày tinh mơ gà vừa gáy sáng vua đã thức dậy sám hối, toạ thiền.
Vua Trần Thái Tông từ con người cá nhân đến những tính toán vì lợi ích quốc gia dân tộc, ngài đều trọn lòng với đạo hiếu.
Chí nguyện xuất trần là đại hiếu, mà trung với nước hiếu với dân cũng là đại hiếu: “Biến trái đất làm vàng ròng cho quốc gia, đãi nhân thiên lấy sông dài làm sữa ngọt” (Khoá Hư lục)
Tư tưởng “nhập thế”, “hoà quang đồng trần” ấy đã được vua Trần Thái Tông đặt làm nền móng cho các đời vua sau như Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông…
Việc lập công lập đức ấy được vua Trần Thái Tông khái quát rất cụ thể: “Khi sử dụng thì vạn cảnh phô bày. Lúc buông xả thì mảy bụi không vướng”.
Đỉnh cao cho việc tiếp nối tinh thần ấy chính là thời đại Trần Nhân Tông, với 2 lần đánh tan quân Nguyên Mông và lập ra thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái mang tâm hồn, bản sắc Đại Việt. Đúng với tinh thần “dụng nhi tắc hành, xả nhi tắc tàng”, khi đi gió cuốn mây bay, khi đứng núi yên non vững.
Cho nên từ trong sâu xa tâm hồn người Việt, đạo hiếu dù lòng riêng nghĩ nhớ thế nào cũng không bước ra ngoài đạo lý thờ cha kính mẹ, yêu nước thương dân.
“Làm gương trước cho thiên hạ”, chính là lúc đạo hiếu không chỉ là lời dạy suông mà chính là hành động thiết thực cụ thể với cha mẹ mình, đồng bào mình.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tăng sĩ Sri Lanka cầu an cho miền Trung tại chùa Tam Bảo
Tâm linh ViệtĐoàn Phật giáo Sri Lanka do Hòa thượng Gemunupura Soamawansa Thero - Hiệu trưởng Trường Phật học Viddyalankara Maha Pirivena - vừa đến thăm chùa Tam Bảo (Đà Nẵng).
Lung linh lễ cúng Trăng - Ok Om Bok của đồng bào Khmer An Giang
Tâm linh ViệtĐêm 5/11 (nhằm ngày 16/9 âm lịch), khán đài sông Cái Lớn, xã Gò Quao (tỉnh An Giang) rực sáng trong muôn vàn ánh đèn hoa đăng.
Hãy thiền mỗi ngày, dù ít!
Tâm linh ViệtNguyện ai cũng được bình an. Giữa cuộc sống bộn bề, xin chúc người vững tâm. Giữa thế sự nổi trôi, xin chúc người đứng vững.
Khai chuông bảng trong Phật giáo: Tiếng gọi tỉnh thức và khởi duyên lành
Tâm linh ViệtTrong nghi thức Phật giáo, lễ khai chuông bảng được xem là thời khắc mở đầu thiêng liêng trước khi một pháp sự, khóa tu hay lễ hội chính thức bắt đầu.
Xem thêm














