STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
Tháng Bảy âm lịch hằng năm, khi mùa Vu lan trở về, ta lại thấy những ngôi chùa rực rỡ ánh đèn, tiếng chuông ngân vang hòa cùng hương trầm lan tỏa.
Trên ngực áo của hàng triệu người, những bông hồng đỏ thắm, trắng tinh khôi hoặc vàng dịu nhẹ lại xuất hiện. Đó không chỉ là một nghi thức tôn giáo, mà là một hình ảnh đã đi sâu vào tâm thức của người Việt, như một biểu tượng cho hiếu hạnh, tình thân và đạo lý nhớ về cội nguồn.
Nguồn gốc Vu lan gắn liền với câu chuyện tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi cảnh ngạ quỷ bằng tâm hiếu hạnh và nhờ sức mạnh của tăng đoàn. Câu chuyện mang thông điệp: công ơn cha mẹ sâu dày đến mức không gì có thể sánh, và người con cần phát tâm hiếu hạnh, biết sống thiện lành để báo đáp. Khi đi vào đời sống người Việt, Vu lan đã vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo, hòa quyện cùng truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, để trở thành mùa hiếu hạnh của cả dân tộc.

Từ ngàn xưa, hiếu đạo luôn là nền tảng trong đời sống người Việt. Nho giáo khẳng định “hiếu vi bản” - hiếu là gốc của đạo làm người. Phật giáo dạy “báo hiếu song thân” như một hạnh tu căn bản. Cả hai luồng tư tưởng cùng gặp nhau trong đời sống văn hóa Việt: coi việc kính trọng cha mẹ, ông bà tổ tiên không chỉ là bổn phận cá nhân, mà còn là tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách.
Trong gia đình truyền thống, cha mẹ được xem là điểm tựa tinh thần. Ông bà tổ tiên được phụng thờ nơi bàn thờ giữa nhà, khói hương nghi ngút mỗi dịp lễ Tết. Ở đó, ta thấy rõ mối dây nối kết các thế hệ: con cháu cúi đầu trước bàn thờ, nhắc nhớ về nguồn cội. Đạo hiếu, vì thế, không chỉ là đạo làm con, mà còn là đạo làm người Việt.
Vu lan khi được du nhập và bén rễ tại Việt Nam, đã phát huy sức mạnh từ chính nền tảng này. Nó làm sâu sắc thêm truyền thống thờ cúng tổ tiên, đồng thời mở rộng ý niệm hiếu đạo: từ cha mẹ trong đời này, đến cha mẹ nhiều đời, đến cả cộng đồng dân tộc. Chính vì vậy, Vu lan không bị giới hạn trong khuôn khổ tôn giáo, mà trở thành một mùa lễ hội văn hóa - xã hội.
Mỗi mùa Vu lan, những ngôi chùa trở thành điểm hẹn cho hàng triệu Phật tử và người dân. Họ đến để nghe pháp thoại về hiếu đạo, để cài hoa hồng lên áo, để tưởng nhớ người đã khuất và biết ơn người còn hiện diện. Có những người rơi nước mắt khi cài bông hồng trắng - dấu hiệu của việc đã mất mẹ, hay bông hồng vàng khi cha mẹ không còn đủ đôi. Những giọt nước mắt ấy không chỉ là nỗi buồn, mà còn là sự thức tỉnh: ta đã thực sự trân trọng cha mẹ khi họ còn sống hay chưa?
Vu lan, do vậy, vừa là dịp tri ân, vừa là dịp trở về. Trở về với cha mẹ, ông bà; trở về với mái ấm gia đình; trở về với những giá trị căn bản nhất của đời người. Trong một xã hội ngày càng bận rộn, khi cơm áo gạo tiền khiến nhiều người quên đi việc bày tỏ tình thân, Vu lan trở thành lời nhắc nhở: tình yêu thương và hiếu đạo không thể trì hoãn.
Một nét đặc biệt của Vu lan trong tâm thức Việt là sự mở rộng khái niệm hiếu. Người Việt quan niệm: hiếu không chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình, mà còn lan tỏa thành nghĩa vụ với làng xóm, quê hương, tổ quốc. “Trung với nước, hiếu với dân” từng là đạo lý được đề cao trong lịch sử. Người biết yêu kính cha mẹ ắt cũng sẽ biết ơn tổ tiên, biết trân trọng sự hy sinh của bao thế hệ đi trước.
Chính vì vậy, bên cạnh lễ Vu lan báo hiếu tại chùa, nhiều nơi còn tổ chức lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ, tưởng niệm những người đã ngã xuống vì độc lập dân tộc. Điều này phản ánh sự giao thoa độc đáo giữa đạo hiếu của Phật giáo và đạo ông bà của người Việt. Cha mẹ không chỉ là hai đấng sinh thành, mà còn là hình ảnh nối dài với tổ tiên và cả đất nước. Hiếu đạo, trong tâm thức Việt, vì thế vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính cộng đồng.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, khi công nghiệp hóa, đô thị hóa và nhịp sống hiện đại khiến các giá trị truyền thống đứng trước nguy cơ phai nhạt, Vu lan càng trở nên có ý nghĩa. Nó không đơn thuần là một nghi lễ, mà là một điểm tựa tinh thần giúp con người cân bằng.
Đối với giới trẻ, Vu lan gợi nhắc rằng hiếu đạo không phải là những lời giáo huấn khô khan, mà là những hành động giản dị: một cuộc gọi về nhà, một lần ngồi nghe cha kể chuyện xưa, một bữa cơm tự tay nấu cho mẹ. Trong kỷ nguyên số, khi mạng xã hội kết nối con người toàn cầu nhưng đôi khi lại khiến ta xa cách chính gia đình, thì việc giữ một mùa Vu lan hiếu hạnh chính là cách để gìn giữ bản sắc.
Vu lan còn góp phần nuôi dưỡng tinh thần biết ơn rộng lớn hơn. Biết ơn cha mẹ để ta biết ơn thầy cô, bằng hữu; biết ơn tổ tiên để ta biết ơn quê hương; biết ơn những người đã hy sinh để ta có được hòa bình hôm nay. Đó là tinh thần tri ân - báo ân, giúp xã hội gắn kết và nhân văn hơn.
Một điều cần nhấn mạnh, Vu lan không chỉ dành cho tháng Bảy âm lịch. Hiếu đạo không thể dồn vào một mùa, một lễ hội. Nó phải hiện diện trong từng ngày sống. Một năm có một mùa Vu lan, nhưng mỗi ngày đều có thể là ngày báo hiếu. Nếu chỉ chờ đến mùa Vu lan mới nhớ thương cha mẹ, thì hiếu hạnh dễ trở thành hình thức. Ngược lại, nếu mỗi ngày đều biết hiếu kính, thì Vu lan chỉ là dịp làm nổi bật và lan tỏa những gì ta đã sống hằng ngày.
Vu lan trong tâm thức Việt không chỉ là lễ hội tôn giáo, mà là sự giao hòa của nhiều tầng văn hóa: đạo hiếu của Phật giáo, đạo ông bà của truyền thống dân tộc, và tinh thần biết ơn cộng đồng. Nó vừa gợi nhắc về cội nguồn, vừa định hướng lối sống nhân ái, biết tri ân.
Trong thời đại hội nhập, khi người Việt đang bước ra thế giới, Vu lan chính là một minh chứng cho bản sắc: chúng ta có thể tiếp thu cái mới, nhưng không quên gốc rễ. Một dân tộc biết hiếu kính cha mẹ, biết tưởng nhớ tổ tiên, biết ơn các thế hệ đi trước, ắt sẽ là một dân tộc vững vàng trước mọi biến thiên.
Và khi mỗi mùa Vu lan về, nhìn những bông hồng cài trên ngực áo, ta hiểu rằng: hiếu đạo không cao xa, mà chính là hơi thở của đời thường. Đó là bữa cơm đầm ấm, là câu nói “con thương cha mẹ”, là lòng biết ơn với đất nước. Chừng nào hiếu hạnh ấy còn trong tâm thức người Việt, chừng đó văn hóa Việt còn bền vững để nâng đỡ chúng ta đi tới tương lai.
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
Những ngày này, khi miền Trung - Tây Nguyên oằn mình trong mưa lũ, hình ảnh những tâm thư trên Zalo, Facebook của chư Tăng Ni kêu gọi hướng về đồng bào vùng thiên tai lan tỏa khắp nơi.
“Thứ Tư tuần sau, 26/11, Sư bà đi Phú Yên, Nha Trang, con à” - Ni trưởng Thích nữ Từ Nhẫn, Trưởng Phân ban Ni giới Phật giáo TP.HCM, trụ trì chùa Phước Viên (Hàng Xanh), nói nhẹ như kể một việc rất đỗi bình thường. Nhưng ai nghe cũng chùng lòng.
Suốt mấy hôm rày, Facebook hầu như chỉ toàn nước: nước mưa, nước lũ, nước mắt… Những dòng trạng thái ướt sũng, những đoạn video cuồn cuộn màu nâu đục, những tiếng kêu cứu xen lẫn nỗi thở dài của cư dân miền Trung khiến lòng người lặng đi.
Một buổi chiều khi tôi tạm dừng bài giảng lúc giải lao, màn hình máy tính của tôi hiện lên một tin nhắn chia sẻ của em tôi về một cô giáo ở quê nhà.
Dẫu thân bì quyện, không nhận được bằng Tuyên dương nhưng tâm của thầy thì công đức đã tròn mãn...
Có những khoảnh khắc, giữa những ồn ào của đời sống và những bất an của kiếp người, ta bất ngờ chứng kiến sự xuất hiện của những Bồ-tát không mang y áo, không ngồi trên pháp tòa, không thuyết giảng một lời.
Mỗi con người đều có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này tiếp xúc với sáu cảnh - sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp - tạo thành sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Chiều tối 8/11, dư luận đều nhận định, có phép mầu khi hay tin cả 3 người dân đặc khu Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) trôi dạt trên biển trong bão Kalmaegi (bão số 13) đều đã được cứu sống.