“Duy tuệ thị nghiệp” là gì?
Câu “Duy tuệ thị nghiệp” có xuất xứ từ Kinh Bát Đại Nhân Giác (tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, tức của Phật, Bồ-tát...). Kinh do ngài An Thế Cao dịch năm 148, đời Hán Hoàn Đế.
Câu “Duy tuệ thị nghiệp” có xuất xứ từ Kinh Bát Đại Nhân Giác (tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, tức của Phật, Bồ-tát...). Kinh do ngài An Thế Cao dịch năm 148, đời Hán Hoàn Đế, được đưa vào Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, số 779.
Câu này thuộc điều giác ngộ thứ ba, nguyên văn chữ Hán như sau:
Tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác;
Bồ-tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần lạc đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Tạm dịch: Tâm tham không chán, cứ mong được nhiều, tăng trưởng tội ác; Bồ-tát chẳng vậy, thường nghĩ biết đủ, chỉ tuệ là nghiệp; ý nói Bồ-tát an nhiên trong thanh bần, vui với đạo, chỉ lấy việc vun bồi phát triển trí tuệ làm sự nghiệp của mình. Từ Nghiệp trong câu trên nên được hiểu một cách đơn giản là sự nghiệp, là công sức xây dựng để được kết quả như ý. “Duy tuệ thị nghiệp” được hiểu như là một châm ngôn, một khẩu hiệu, đề cao sự phát triển trí tuệ để từ đó đạt được trí tuệ tuyệt đối toàn hảo của chư Phật.
Trong phần cuối của bài kệ thứ ba trong kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật dạy rằng, bậc Bồ tát cần phải: "Thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy Tuệ thị nghiệp”.
Tuệ và Nghiệp
Tuệ (Prajna, Panna) hay bát nhã, trí tuệ, minh... là cái biết về lý, sự của hết thảy các pháp, khi tiến đến chỗ rốt ráo, trọn vẹn thì đó là Phật trí, hay Nhất thiết chủng trí của chư Phật. Tuệ hay Bát nhã Ba la mật (sự toàn hảo của Tuệ) là trí tuệ của chư Bồ-tát. Trí tuệ này không giống như sự thông minh, hiểu biết hay khả năng suy luận của người đời; nó có khả năng quán chiếu và thấy đúng thực tướng của các pháp, nó là Không, không chướng ngại, xa rời mọi điên đảo, thẳng đến Niết-bàn rốt ráo (xem Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh). Trong sáu Ba la mật (sáu sự toàn hảo), trí tuệ Ba la mật được xem là quan trọng nhất, là mẹ của chư Phật (vì chính từ trí tuệ này mà phát sinh Nhất thiết chủng trí của chư Phật).
Bát nhã Ba la mật là trí tuệ của Bồ-tát như đã nói, nhưng vì hết thảy chúng sinh đều có Phật tính cho nên cái biết của chúng sinh cũng là cơ sở để biến thành tuệ của Bồ-tát, rồi thành Phật trí. Do đó nhiều kinh sách cũng đã phân biệt nhiều loại trí tuệ. Đó là:
1/ Nhất thiết trí, tức trí biết rõ tổng tướng của các pháp, đây là trí của hàng Thanh văn, Duyên giác.
2/ Đạo chủng trí, tức trí biết rõ biệt tướng của các pháp, đây là trí của hàng Bồ-tát
3/ Nhất thiết chủng trí tức trí thông đạt tổng tướng và biệt tướng của các pháp, đây là trí của chư Phật.

Ngoài ra còn có nhiều phân biệt khác nữa về các loại trí: Cộng Bát nhã là trí chung của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Bất cộng Bát nhã là trí của Bồ-tát; Thế gian trí là trí của thế gian còn gọi là Phương tiện Bát nhã hay Văn tự Bát nhã và Bát nhã tức trí tuyệt đối; Thật tướng Bát nhã và Quán chiếu Bát nhã là trí quán chiếu đối cảnh mà tìm sự chân thật; Thế gian trí của phàm phu, Xuất thế gian trí của Thanh văn, Duyên giác và Xuất thế gian thượng trí của Phật và Bồ-tát; Văn tuệ, tức tuệ do nghe kinh điển mà có, Tư tuệ, tức tuệ do tư duy mà có và Tu tuệ, tức tuệ do tu mà có.
Nghiệp (Karma hay Kamma) là kết quả của những hành động có tác ý. Đó là những tác thành của hành động, lời nói và ý nghĩ (thân, khẩu, ý). Nếu kết hợp với quan hệ nhân quả thì nghiệp là năng lực do những hành vi trong quá khứ (của đời này và các đời trước) kéo dài đến hiện tại và tương lai (của đời này và các đời sau). Một cách khái quát, ta phân biệt thiện nghiệp và ác nghiệp, từ đó sinh ra các quả báo tốt (thiện) và quả báo xấu (ác)...
Do đó, nếu ta thực hiện học tập, vun trồng trí tuệ, tức là ta gây thiện nghiệp và sẽ đạt thiện quả là trí tuệ của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, và cuối cùng là Nhất thiết chủng trí của chư Phật. Trong nghĩa hẹp và rất cụ thể, như đã nói, những gì ta tạo tác xây dựng trong đời ta với ý hướng tốt đẹp thì đấy là sự thực hiện nghề nghiệp tốt, sự nghiệp tốt hay thiện nghiệp; đây chính là ý nghĩa căn bản của từ Nghiệp trong câu “Duy tuệ thị nghiệp” vậy.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Metta nghĩa là Thiện Ý
Phật giáo thường thứcAjaan Fuang - thầy của tôi - từng kể rằng một lần có con rắn bò vào ở trong cốc của Ngài. Suốt ba ngày, mỗi khi bước vào phòng, Ngài đều thấy nó lẩn vào sau chiếc tủ. Dù mở cửa cốc cả ngày, con rắn vẫn không đi. Hai “vị” lặng lẽ sống chung một phòng, và Ngài thì hết sức cẩn trọng, không làm điều gì khiến nó giật mình hay cảm thấy bị đe dọa.
Công dụng của Bát-nhã
Phật giáo thường thứcBát-nhã là trí tuệ chiếu soi các pháp, trí tuệ thấy như thật. Công dụng của Bát-nhã rất lớn, phá tất cả kiến chấp, nên có rất nhiều thí dụ...
Tam tai: Nạn nước, gió bão, lửa từ do đâu mà đến?
Phật giáo thường thứcHiện tại thế gian tai nạn triền miên, nếu chúng ta không chăm chỉ nỗ lực mà tu, tương lai làm sao có thể tự cứu, cứu người?
15 điều khẩu truyền trân quý về Chú Lăng Nghiêm
Phật giáo thường thứcThường xuyên tụng Chú Lăng Nghiêm có thể giải trừ được khí độc trong trời đất. Quý vị chỉ cần trì tụng, trong vô hình đối với trời, đất, và tất cả mọi thứ đều có được sự trợ giúp và cảm ứng.
Xem thêm














