Thứ sáu, 10/07/2020, 09:05 AM

Nguồn gốc và ý nghĩa của Chuông, Mõ, Khánh trong Phật giáo

Chuông, Trống, Khánh… là các loại pháp khí của Phật giáo, mỗi một loại pháp khí đều có ý nghĩa và vai trò khác nhau.

1. Chuông

Chuông là một loại kiền chùy trong Phật giáo không thể thiếu trong các lễ nghi của Phật giáo.

Chuông là một loại kiền chùy trong Phật giáo không thể thiếu trong các lễ nghi của Phật giáo.

Chuông là một loại kiền chùy trong Phật giáo không thể thiếu trong các lễ nghi của Phật giáo. Đã từ rất lâu tiếng chuông đồng trở thành hiệu lệnh trong các chùa chiền, làm thước đo thời gian để các tăng ni tuân thủ giờ giấc. Trong khung cảnh tĩnh mịch của chùa chiền tiếng chuông đồng khiến tâm hồn khoáng đạt thanh tịnh, làm tăng thêm sự uy nghi của ngôi chùa.   

Trong Kinh Phật ghi chép: Ngày 15/7 là kỳ mãn hạ, chư Tăng tự tứ. Phật bảo thị giả là ngài A Nan đánh kiền chùy để nhóm họp Tăng chúng, A Nan liền lên giảng đường tay đánh kiền chùy nói: "Con nay đến đây đánh tín cổ của Như Lai, hễ ai là đệ tử của Như Lai, khi nghe hãy vân tập về đây". Từ đó chuông trở thành pháp khí quang trọng trong tu viện Phật giáo.   

An Nam tứ đại khí là gì?

Có 3 loại chuông thường dùng trong các tự viện là Đại hồng chung, báo chúng chung và gia trì chung.

Đại hồng chung: Là loại chuông lớn. Chuông này gọi là chuông u minh, thường đánh vào lúc đầu đêm và cuối đêm. Đánh vào lúc đầu đêm có ý là nhắc nhở cơn vô thường nhanh chóng cho mọi người và đánh vào lúc cuối đêm là có ý thức tỉnh mọi người tinh tấn tu hành để chóng vượt ra ngoài vòng tối tăm đau khổ.

Báo chúng chung (cũng gọi là Tăng đường chung): Tức là thứ chuông dùng để báo tin trong khi nhóm họp, thọ trai và khóa tụng… trong các tự viện.

Gia trì chung: Là thứ chuông dùng điều hòa và ra hiệu trong khi tụng kinh, lễ Phật cho được nhịp nhàng đều đặn.

2. Mõ

Mõ cũng giống như Chuông, là một trong các loại pháp khí đã có từ lâu đời, được xếp là một nhạc khí tự thân vang rất phổ biến ở Việt Nam.

Mõ cũng giống như Chuông, là một trong các loại pháp khí đã có từ lâu đời, được xếp là một nhạc khí tự thân vang rất phổ biến ở Việt Nam.

Mõ cũng giống như Chuông, là một trong các loại pháp khí đã có từ lâu đời, được xếp là một nhạc khí tự thân vang rất phổ biến ở Việt Nam.

Trong bộ sách "Sắc tu thanh qui pháp khí", về chương mộc ngư có chép rằng: Tương tuyền loài cá luôn luôn thức không bao giờ ngủ và rất hoạt động. Vì vậy, khi tạo loại pháp khí về mõ, thời chạm trổ kiểu cách của mõ theo hình con cá có ý nghĩa là: bởi vì tiếng mõ có thể đánh thức được hồn tỉnh làm cho mọi người tỉnh cơn mê muội...!

Mõ có hai loại là: mõ chạm trổ theo hình bầu dục có tạc đầu cá và mõ hình điếu chạm nguyên hình con cá nằm dài. Loại mõ hình bầu dục nói trên dùng để đánh trong khi tụng niệm, còn loại mõ hình điếu thì thường treo ở nhà trù và để đánh báo tin giờ thọ trai.

3. Khánh

Khánh là một loại nhạc khí trong Phật giáo, thuộc bộ gõ, ban đầu dùng ngọc đá chế thành, hai đầu rũ xuống giống như hình dạng cái bảng.

Khánh là một loại nhạc khí trong Phật giáo, thuộc bộ gõ, ban đầu dùng ngọc đá chế thành, hai đầu rũ xuống giống như hình dạng cái bảng.

Khánh là một loại nhạc khí trong Phật giáo, thuộc bộ gõ, ban đầu dùng ngọc đá chế thành, hai đầu rũ xuống giống như hình dạng cái bảng.

Sách Tượng Khí Tiêu quyển thứ 18 chép: “Ngài Vân Chương nói: hình của bản giống như đám mây, nên người ta cũng thường gọi tên của bảng là Vân Bản.” Ngài Tục Sự Lão cũng có thuật: “Vua Tống Thái Tổ cho rằng, tiếng trống hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng Trống, vua Tống Thái Tổ chế dùng thiết khánh Loại khánh này cũng gọi là chinh, tức là vân bản vậy.

Khánh có nhiều loại: Ngọc khánh, đồng khánh, thiết khánh, biên khánh, sanh khánh, tụng khánh, ca khánh, đặc khánh…. 

Ý nghĩa chuông mõ và cách thức sử dụng như thế nào?

Ngày nay trong các tự viện, khánh làm bằng đồng chừng bằng cái đĩa lớn, treo trong một cái giá gỗ, thường dùng để báo hiệu trong phạm vi nhỏ, chẳng hạn như để báo thọ trai hay khi thỉnh một vị Tăng, Ni từ trong liêu ra Pháp đường; hoặc đón rước một vị đại sư hay danh tăng đến tự viện, nghi lễ nầy đi trước là khay lễ gồm nhang, đèn, hoa, quả, kế theo là một vị cầm khánh treo trong giá, vừa đi vừa đánh khánh rồi tiếp theo là vị được đón rước theo sau - có thể có cả lọng – rồi mới tiếp đến những Tăng Ni khác tùy theo phẩm trật xếp thành thứ tự. Những vị Tăng Ni nhập đại định, muốn báo cho vị ấy xuất định, người ta cũng dùng tiếng khánh để cảnh tĩnh.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Chép hồng danh Phật sẽ có công đức lớn

Kiến thức 10:57 12/12/2024

Chép hồng danh Phật hay chép Nam mô A Di Đà Phật là một trong những phương pháp tiêu nghiệp và giúp tăng phước.

Ngày vía Phật A Di Đà là ngày nào?

Kiến thức 09:11 11/12/2024

Ngày vía Phật A Di Đà là ngày tưởng nhớ Đức Phật A Di Đà, tác lễ tri ân công đức mà Ngài đã dày công tạo lập Thế giới cực lạc. Hằng năm ngày vía Phật A Di Đà được tổ chức vào ngày 17/11 âm lịch.

Vì sao ngày 17/11 âm lịch hằng năm là ngày vía Phật A Di Đà?

Kiến thức 08:00 11/12/2024

Những hành giả tông Tịnh Độ hiện nay gần như ai cũng biết và tham gia lễ kỷ niệm vía Phật A Di Đà đản sanh vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hàng năm. Tuy nhiên, trong các kinh văn có đề cập đến lịch sử Phật A Di Đà thì tuyệt nhiên không thấy nói chính xác ngày Đản sanh của Ngài.

Trước khi tụng Kinh, trì chú, nên đọc nghi thức như thế nào?

Kiến thức 09:15 04/12/2024

Thực ra mỗi tông môn, thậm chí mỗi chùa sẽ có cách thức khác nhau, nên Nghi thức sau chỉ mang tính tham khảo. Đạo hữu nào thấy phù hợp có thể áp dụng, xong bạn cần hiểu đây không phải quy định bắt buộc, thậm chí không có nghi thức khai Kinh chú thì vẫn cứ trì tụng không vấn đề gì.

Xem thêm