Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ, 12/06/2023, 07:26 AM

Nụ cười bất diệt

Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi tượng đúc Phật và nụ cười của các Thiền sư khi giã từ cuộc đời.

Tại sao bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại Lộc Uyển đề cập trước nhất là khổ đế, cho đến nhiều bài thuyết pháp sau này, đức Phật cũng thường nhắc đến nỗi khổ của chúng sinh bằng những câu "nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả", mà trên gương mặt Ngài luôn nở nụ cười. 

Vô minh là cội nguồn của muôn kiếp khổ đau - Con người có mặt trên cõi đời này do vô minh chủ động, nên khi ra đời đã mang sẵn chất keo đau khổ. Vô minh là gì mà đày đoạ con người lắm thế.? Vô minh là nhận hiểu sai lầm về con người và muôn vật. Về con người, thân này là cái không thể giữ mà cố giữ, cái sắp bại hoại mà muốn không bại hoại, cái tạm bợ mà tưởng lâu dài, cái nhơ nhớp mà tưởng đẹp đẽ; các cảm giác là hư ảo mà tưởng chân thật, cảm giác là vô thường mà tưởng lâu dài, cảm giác là là đau khổ mà tưởng hạnh phúc; nội tâm vọng tưởng là ảo ảnh mà chấp là tâm mình, chân tâm bất biến thì lơ là không biết đến.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Và muôn vật, những sắc hình hào nhoáng, những âm thinh sanh diệt, những hương vị tạm bợ mà mê say đắm đuối, khao khát thèm thuồng đuổi bắt suốt đời không biết mệt mỏi. Từ những nhận hiểu sai lầm này, con người không bao giờ toại nguyện, không bao giờ được như ý, không bao giờ thấy hạnh phúc; mà luôn luôn thấy bất mãn, bất như ý, bất hạnh...là nguồn gốc khổ đau. Cái nhận biết sai lầm này gắn chặt vào chúng ta từ đòi này sang kiếp nọ, mãi mãi không rời, cho nên khổ đau do nó gây ra không biết lấy đâu làm ngằn mé, chỉ còn cách diễn tả "nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả". 

Mặc dù vô minh hiểm nguy như thế, song một phen giác ngộ chúng đều tiêu tan. Như ngôi nhà tối ngàn năm chỉ còn thắp ngọn đèn sáng lên thì bóng tối tan mất. Cái mê lầm u tối tạo thành muôn ngàn sợi dây nghiệp khổ; trói buộc lôi kéo con người lăn lộn trong vạn nẻo luân hồi, tưởng chừng như không có cách gì thoát khỏi, đâu ngờ ngọn đèn giác ngộ vừa bừng sáng lên, chúng liền lui mất không còn tung tích. Thấy được việc này, đức Phậtkhông nở nụ cười an lành sao được. 

Chúng sinh si mê tranh dành sắc, tài, danh, lợi, đấm đá nhau, sát phạt nhau, lừa đảo nhau, hận thù nhau ... biến cảnh nhân gian thành bãi chiến trường. Kẻ thắng thì được hoan hô thăng thưởng, được vật chất dẫy đầy; người bại thì bị khinh miệt chê đè, bị thân tàn nghèo đói. Một bên hạnh phúc, một bên khổ đau hiện bày trước mắt mọi người. Vì thế, bất cứ ai có mặt trên trần gian đều sẵn sàng cầm kiếm xông vào trận mạc để mong dành phần thắng về mình. Nhưng nơi chiến trường đâu phải ai cũng là kẻ thắng. Có người thắng là có kẻ bại, có hạnh phúc là có khổ đau. Đôi khi kẻ bại phải tan thân mất mạng đã đành, mà người thắng cũng thương tích đầy mình. Hạnh phúc rất ít mà khổ đau quá nhiều. Mặc dầu là thế, ở đời có ai chịu nhường bước cho ai. Nhũng chiếc xe tranh nhau qua mặt gây tại nạn, hàng ngày xảy ra nhan nhản trước mắt, mà các chú tài xế ít khi chịu nhường tránh nhau để mình và người được an toàn. Tranh đấu đã trở thành qui luật của con người. Song kẻ thắng người bại kết cuộc sẽ thành cái gì? - Một nấm mồ hay một nhúm tro tàn ! 

Đời người là diễn viên đang diễn xuất những vở bi hài kịch trên sân khấu của kịch trường. Dù đóng vai người tài danh lỗi lạc hay đóng vai kẻ ăn mày cùng khổ ở xó chợ đầu đường, khi hạ màn kết thúc đều không. Trong lúc giả trang tạm thời ấy, mọi sự được mất thành bại ... đều là trò chơi. Người diễn viên thông minh đóng kịch, dù bi kịch hay hài kịch, khi sân khấu buông màn liền nở nụ cười, đây là trò đùa trên sân khấu, không có một chút hối tiếc hay lo buồn. Đức Phật đã giác ngộ viên mãn, thấy rõ cuộc đời ảo hóa, khi từ giã cuộc đời tự nhiên ngài hé môi cười nhẹ. 

Những thứ suy tư nghĩ tưởng trong nội tâm, mỗi con người chúng ta đều thừa nhận là tâm của mình, hoặc nhận là mình. Tôi suy tư thế này, tôi nghĩ tưởng thế kia, hoặc tôi nghĩ tôi tưởng. Do thừa nhận chúng là mình, nên chúng ra oai tác quái tạo đủ thứ nghiệp, cột trói lôi kéo mình lăn tròn trong lục đạo không có ngày thoát khỏi. Hằng ngày các thứ ấy lăng xăng lộn xộn bủa vây che đậy trong nội tâm chúng ta không một chút giây an ổn. Có khi chúng nó ồn ào náo loạn khiến đầu óc ta nóng rực bất an, cố van xin chúng cho cho ta được vài phút an lành, nhưng chúng nó nào có chịu tha, cứ tha hồ quậy, buộc lòng ta phải dùng thuốc an thần để chống cự. Thậm chí những nhà tu hành cũng bực bội sự náo loạn của chúng, phải chạy tìm "pháp an tâm". Có vị sợ sự trói buộc vô hạn định của chúng, phải đi cầu xin "pháp giải thoát".

Gặp bậc thầy cỡ lớn, nhà tu hành liền đem ra hỏi "pháp an tâm". Ông thầy nghiêm nghị bảo "đem tâm ra ta an cho". Nhà tu hành sửng sốt phản quang soi lại thì bọn giặc ồn àođã biến đâu mất, đành thưa "con tìm tâm không được". Bậc thầy nhếch mép cười bảo "ta đã an tâm cho ngươi rồi. Nhà tu hành bỗng dưng thấy bọn giặc ấy là một đám khói mây. Nhà tu hành khác thao thức lo sợ sự trói buộc của đám phiền não này đi cầu thầy dạy "pháp giải thoát". Ông thầy cỡ lớn chỉ hỏi "ai trói buộc ông?". Nhà tu hành tìm lại không thấy có gì trói buộc, liền thưa "không có ai trói buộc". Ông thầy cả cười bảo "cầu giải thoát làm gì ?" Nhà tu hành bỗng dưng thấy trăm dây ngàn mối trước kia nhất thời đã biến đâu mất. 

Khi thấy tột bản chất ảo hóa của các thứ tâm lăng xăng lộn xộn này, đức Phật chỉ có cười với chúng mà thôi! Nếu ai còn lầm nhận chúng là mình thì bị chúng ra oai tác quái, trái lại người biết rõ bản chất hư ảo của chúng thì không bị chúng lừa gạt và khả năng lôi kéo của chúng cũng bị hạn chế. Thấy rõ các thứ tâm hư ảo rồi, đức Phật còn nhận ra tâm thể chân thật nơi mỗi con người là thênh thang trùm khắp, chưa bao giờ bị sinh diệt vô thường. Xả bỏ thân khổ đau nhớp nhúa, tạm bợ, thể nhập pháp thân thanh tịnh bất sanhbất diệt (niết bàn), nhẹ nhàng an lạc biết mấy, thì đức Phật làm sao chẳng hé nở nụ cười an lành thanh thản. Không những Phật mà các Thiền sư đệ tử Phật khi từ giã cuộc đờicũng cười. Tôn giả Pháp Loa khi sắp tịch diệt để kệ: 

Dịch âm: 

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn 

Tứ thập dư niên mộng huyễn gian 

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn 

Na biên phong huyệt cách man khoan 

Dịch nghĩa: 

Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn 

Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng 

Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi 

Bên kia trăng gió rộng thênh thang 

Đeo mang thân này là đeo mang gông cùm, bệnh tật, bại hoại, khổ đau, buông xả được nó thì nhẹ nhàng thảnh thơi an lạc. Xả bỏ thân này đâu phải là hết, mà còn bầu trời mênh mông có trăng trong gió mát, còn gì thích thú bằng, nên Thiền sư cười. 

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Tu hành là gì? Như thế nào gọi là tu hành?

Kiến thức 10:00 22/11/2024

Mọi người nhất định không nên hiểu lầm, hiểu sai đi ý nghĩa của hai chữ tu hành này. Như thế nào gọi là tu hành?

Bố thí sinh phiền não

Kiến thức 09:32 22/11/2024

Thuở xưa, khi mà Ngài Xá-lợi-phất đang tu Bồ-tát đạo, công phu tu tập chưa được vững. Một hôm có người Bà-la-môn đến thử Ngài. Họ nói: - Người tu hạnh Bồ-tát cần phải bố thí. Tôi nay có chút việc đến xin Ngài giúp cho.

Tâm là gì?

Kiến thức 09:16 22/11/2024

Trong chữ Hán, chữ (心) được mô tả bằng bốn câu thơ như sau: “Tam điểm như tinh tượng/ Hoành câu tợ nguyệt tà/ Phi mao tùng thử đắc/ Tố Phật dã do tha”.

Học Phật giản đơn

Kiến thức 08:00 22/11/2024

Luôn giữ tâm thanh tịnh, chánh niệm tỉnh giác xa lìa các pháp cấu uế, bất thiện dần hướng đến an lạc, Niết bàn miên viễn.

Xem thêm