Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 26/11/2015, 12:44 PM

Pháp Tự tứ của tăng

Nghĩa là vị Tỷ kheo sau khi hạ an cư đủ ba tháng, tự mình buông ra lời nói thỉnh cầu một vị tỷ kheo khác đầy đủ năm đức, chỉ điểm những lỗi lầm cho mình qua ba mặt thấy, nghe và nghi, giúp cho mình biết và tự mình cầu xin sám hối để được thanh tịnh.

I.Ý nghĩa và duyên khởi

Tự tứ tiếng Pàli Pavàranà; Phạn là pravàranà, Hán phiên âm là bát-hòa-la, bát lợi ba thích noa và dịch là tự tứ, thỉnh thỉnh, tùy ý, tùy ý sự, mãn túc, hỷ duyệt,…

Pravàranà, Phật đà thập và trúc đạo sinh dịch là Tự tứ ( Ngũ phần luật 19, Đại chính 22, tr 130c). Tự là tự mình, tứ là buông ra. Nghĩa là vị tỳ kheo sau khi hạ an cư đủ ba tháng, tự mình buông ra lời nói thỉnh cầu một vị tỳ kheo khác đầy đủ năm đức, chỉ điểm những lỗi lầm cho mình qua ba mặt thấy, nghe và nghi, giúp cho mình biết và tự mình cầu xin sám hối để được thanh tịnh.

Ý nghĩa tự tứ là vậy, nên ở Trung A Hàm, Tăng già đề bà dịch là thỉnh thỉnh (Trung A Hàm 29, Thỉnh Thỉnh kinh, Đại Chính 1, tr 610); ở căn bản nhất thiết hữu bộ tỳ nại da, Nghĩa tịnh dịch là tùy ý sự (Đại Chính 23, tr 1044). Nghĩa là pháp tự tứ là tỳ kheo sau khi hạ đủ, tùy ý thỉnh tỳ kheo khác đủ năm đức chỉ bày cho ba sự gồm: Thấy việc sai lầm chỉ bày cho mình; nghe việc sai lầm chỉ bày cho mình và nghi ngờ việc sai lầm chỉ bày cho mình, để tự mình thấy có tội thì như pháp sám hối, khiến thân tâm trở lại thanh tịnh. Do sau khi mãn hạ, sám hối đúng pháp đối với ba sự: Kiến, văn và nghi, nên gọi là mãn túc và tự mình sinh tâm vui mừng, sau khi đã sám hối ba sự đúng pháp và được thanh tịnh, để nhận thêm tuổi hạ, nên gọi là hỷ duyệt. Và ở Luật Tứ Phần 37, Phật đà da xá và trúc phật niệm dịch là cầu thính. (Đại chính 22, tr 836b).

Pháp Tự tứ, một năm chỉ xảy ra cho tỳ kheo tăng một lần, sau khi hạ đủ. Nghĩa là tác pháp kết giới an cư vào ngày mười sáu tháng tư, thì thời điểm tự tứ thích hợp đối với tăng là ngày Rằm tháng bảy. Và nếu tác pháp kết giới hậu an cư, tức là vào ngày mười bảy tháng tư, thì thời điểm thích hợp cho tăng tác pháp tự tứ là ngày mười sáu tháng bảy,…

Tuy vậy, nhật kỳ Tự tứ, tăng có thể thay đổi để thích ứng những nhu cầu tu học thực tế, nhưng tăng phải tác pháp yết ma. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 840b).
Ảnh minh họa
Nói tóm lại, thời gian thích hợp để tăng tác pháp Tự tứ là thời gian sau khi hạ đủ. Và Tự tứ của tăng Tỷ kheo một năm chỉ xảy ra một lần sau khi hạ đủ mà thôi.

Mục đích của tăng Tự tứ là ngoài việc biểu hiện cụ thể bản thể hòa hợp và thanh tịnh của tăng, còn xác định cụ thể sự tăng trưởng lớn mạnh về Giới- Định- Tuệ của một vị tỳ kheo, sau khi hạ mãn và chấm dứt kỳ hạn An cư, và các Tỷ kheo lại tiếp lên đường hoằng pháp.

Theo kinh Thỉnh Thỉnh, bấy giờ tại Tu viện Trúc lâm, vườn Già lan đà, ở Thành Vương- xá, cùng với chúng đại tỳ kheo năm trăm vị đều có mặt cùng ngồi thọ hạ. Bấy giờ ngày trăng thứ 15, từ tâm giải thoát, đức Thế Tôn nói về hình thức Thỉnh thỉnh.

Ngài dạy các tỳ kheo rằng: Quý vị là đệ tử chân thực của ta, từ nơi miệng mà pháp sinh ra, được chuyển hóa bởi pháp, quý vị hãy dạy cho nhau, tuần tự dạy nhau thỉnh cầu chỉ điểm.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất theo đúng phép tắc cầu thỉnh, đã đến trước đức Thế Tôn chấp tay cung kính xin thỉnh Ngài chỉ giáo về các hành vi của thân, ngữ và ý. Đức Thế Tôn nói, Ngài không có phiền trách gì đến các hành vi thân, ngữ và ý của tôn giả. Ngài khen tôn giả là bậc thông tuệ, đại tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ và thành tựu thực tuệ,…

Tôn giả Xá Lợi Phất, bạch Thế Tôn rằng, đối với các hành vi thân, ngữ, ý của năm trăm tỳ kheo, Ngài có phiền trách gì không? Thế Tôn dạy, đối với các hành vi của năm trăm tỷ kheo này, Ngài cũng không có gì phiền trách cả. Vì sao? Vì các vị nầy đã đạt đến chỗ không còn mắc kẹt, các lậu hoặc đã đoạn tận, phạm hạnh đã thiết lập, điều đáng làm đã làm, đã xả bỏ sự tái sinh đời sau,…

Vì vậy, tôi không có gì phiền trách, các hành vi thuộc về thân, ngữ và ý của năm trăm vị tỳ kheo này

Như vậy, duyên khởi của pháp Tự tứ, sau khi mãn hạ đã được ghi lại ở kinh thỉnh này. (Trung A hàm 29, Đại chính 1, tr 610a).

Lại theo Luật Tứ Phần 37, duyên khởi pháp Tự tứ là pháp cầu thính. Bấy giờ nhóm sáu tỳ kheo nói với nhau như vậy: “Đức Phật dạy: Các Tỳ kheo phải cùng dạy bảo nhau, cùng nhau trao đổi, giác ngộ cho nhau”. Họ liền cử tội tỷ kheo thanh tịnh. Các tỳ kheo đến bạch đức Thế Tôn, Ngài dạy: “Không được vô cớ cử tội người vô tội. Nếu muốn cử tội tỳ kheo hữu sự, trước hết phải nói cho vị ấy biết, để vị ấy cầu thính, sau đó mới được cử”. (Đại chính 37, tr 836a).

Cầu thính là cầu nghe vị tỷ kheo khác cử tội. Người được thỉnh cầu nghe cử tội, người ấy phải có đủ năm pháp gồm: - Tri thời, nghĩa là biết đúng lúc cử tội và không đúng lúc cử tội. - Như thực, nghĩa là phải biết đúng pháp mà cử tội, chứ không phải không biết mà cử tội. - Hữu lợi ích, nghĩa là biết cử tội đem lại lợi ích cho người thỉnh cầu, chứ không phải không có lợi ích. - Nhu nhuyến, nghĩa là dùng lời nói dịu dàng để cử tội chứ không thô lỗ, sân hận - Từ tâm, nghĩa là cử tội với từ tâm mà không sân hận (Đại chính 22, tr 836b).

Đức Phật dạy, một tỳ kheo phải đầy đủ năm pháp ấy, mới được phép nhận sự cầu thính của các tỳ kheo khác. Và tỳ kheo đã nhận sự cầu thính cử tội, thì không được tự ý bỏ đi nơi khác.

Cũng theo luật Tứ Phần 37, nhóm tỷ kheo sáu người đã hứa khả cầu thính cho tỳ kheo khác, rồi tự ý bỏ đi. Các tỷ kheo thanh tịnh đem việc nầy trình lên Đức Phật, Ngài dạy: “Không được hứa với người rồi tự ý bỏ đi; không được nhận lời hứa của người, rồi tự ý bỏ đi. Từ nay cho phép an cư rồi Tự tứ. Cho phép tự tứ khỏi phải cầu thính. Tại sao? Vì tự tứ chính là thính” (Đại chính 22, tr 836b).

Nhưng, duyên khởi Tự tứ, theo Luật ngũ phần: Do các tỷ kheo nói với nhau rằng, chỉ có A la hán mới xứng đáng chỉ bảo cầu thính. Nhân đây, đức Phật dạy pháp Tự tứ ( Ngũ Phần Luật, Đại chính 22, tr 131b).

II.Tăng Số Và Tác Pháp

Túc số tăng để tiến hành tác pháp yết ma Tự tứ tối thiểu là năm vị tỳ kheo. Vì trong đó, một vị được tăng bạch nhị yết ma cử làm Tự tứ nhân. Và sau khi tăng đã cử tự tứ nhân xong, thì từ vị Thượng tọa xuống đến vị tân tỳ kheo đều lần lược từng vị đối diện với vị Tự tứ nhân nói lời yêu cầu chỉ điểm về tam sự gồm kiến tội, văn tội và nghi tội, để cho đương sự nếu thấy có tội, thì đúng như pháp mà sám hối. Và nếu tăng chỉ có bốn vị, thì không thể tiến hành tác pháp yết ma cử Tự tứ nhân chỉ điểm tam sự, mà chỉ thực hành pháp đối thủ tự tứ. Nghĩa là một vị tỳ kheo đối diện với một tỳ kheo khác hoặc quỳ, hoặc đứng để nói lời Tự tứ. Và nếu một tỳ kheo thì chỉ có tâm niệm Tự tứ.
 Ảnh minh họa
Trong pháp Tự tứ có những trường hợp được dự dục, nếu tỳ kheo có những duyên sự như pháp. Và tỳ kheo gởi dự dục với một tỳ kheo và nhờ vị ấy bạch lại với tăng thì chỉ nói hòa hợp mà không cần phải nói thanh tịnh. Vì sao? Vì Tự tứ là đương sự tự nguyện, tự giác yêu cầu trực tiếp Tự tứ nhân chỉ điểm cho ba sự để sám hối cho được thanh tịnh. Nên, dự dục đối với Tự tứ chỉ nói hòa hợp mà không nói thanh tịnh là vậy. Một tỳ kheo có thể nhận gởi dục tự tứ từ nhiều người. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 838b).

III.Tăng Pháp Tự Tứ

Tăng pháp Tự tứ có hai giai đoạn tiến hành:

*- Giai đoạn tiến hành tiền phương tiện:

Sau khi khi nghe Pháp hiệu tập Tăng, các tỳ kheo như pháp tuần tự vào giới trường, sau khi mỗi vị đã an trú tĩnh tọa đúng vị trí. Thượng tọa bỉnh pháp pháp hỏi:

- Tăng đã họp chưa?

Duy na đáp:

- Tăng đã họp.

Thượng tọa hỏi:

- Hòa hiệp không?

Duy na đáp:

- Hòa hiệp.

Thượng tọa hỏi:

- Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?

Duy na đáp:

- Đã ra.

Thượng tọa hỏi:

- Các tỷ kheo không đến có thuyết dục tự tứ không?

Nếu có, duy na đáp: Dạ có. Có tỷ kheo,… có “gởi dục tự tứ”, xin bạch như vậy. Nếu không có, duy na đáp: Dạ không.

Thượng tọa hỏi:

- Có ai sai tỳ-kheo-ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?

Nếu không, duy na đáp không. Nếu có, duy na đáp có. Và gọi tỳ-kheo-ni thọ sai vào giới trường, vị ấy đảnh lễ đại tăng, quỳ xuống và bạch:

“Bạch Đại đức Tăng! Đệ tử chúng con, tỳ-kheo-ni tăng, trú xứ,… hạ an cư đã xong. Ni Tăng sai chúng con tỳ-kheo-ni đến đại tăng, vì tỳ-kheo-ni tăng cầu nói ba sự Tự tứ, là các tội được thấy, được nghe và được nghi. Ngưỡng mong Đại đức Tăng rủ lòng thương tưởng chỉ giáo. Nếu chúng con thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần).

Bấy giờ trong tăng, tỳ kheo nào thấy có điều gì cần chỉ giáo ba việc kiến, văn và nghi đối với ni chúng thì nói, nếu không thì tất cả đều im lặng. Và sau đó Thượng tọa có lời giáo giới đối với ni chúng rằng:

“Trong đại tăng, từ trên xuống dưới thảy đều im lặng như vậy, thật do ni chúng bên trong chuyên cần ba nghiệp, bên ngoài vô sự, cho nên không có điều gì trái phạm. Tuy nhiên như vậy, các vị hãy nói lại với ni chúng, đại tăng có giáo sắc rằng: Ni chúng như pháp mà Tự tứ, cẩn thận chớ buông lung”.

Tỳ-kheo-ni thọ sai đáp:

“Y giáo phụng hành”. Rồi đảnh lễ tăng và lui ra.

Thượng tọa hỏi:

- Tăng nay hòa hợp để làm gì?

Duy na đáp:

- Yết ma Tự tứ.

*- Giai đoạn Tăng tác pháp tiến hành chính thức Tự tứ:

Giai đoạn nầy có ba phần như sau:

1.Tăng Yết Ma Sai Tự Tứ Nhân:

Tự tứ nhân hay còn gọi là Ngũ đức sư. Ấy là người Tăng tác pháp Bạch nhị yết ma cử làm người tự tứ. Một lần Tăng yết ma chỉ đựợc phép cử từ một đến ba vị. Không được phép cử bốn, vì bốn vị trở lên thành túc số của Tăng. Tăng không thể cử Tăng. Tăng cử Tăng là phi pháp.

Theo Luật Tứ Phần, vị được tăng cử làm người tự tứ phải hội đủ năm đức tính:

a -Bất ái: Nghĩa là khi nhận làm việc tăng sai chỉ tội tỳ kheo khác, sau khi hạ mãn qua ba việc kiến, văn và nghi, vị này không có tâm thiên ái.

b -Bất sân: Nghĩa là khi nhận làm việc tăng sai chỉ tội cho vị tỳ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị này không được có tâm sân hận, thù ghét.

c -Bất bố: Nghĩa là khi nhận làm việc tăng sai chỉ tội cho vị tỳ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sợ hãi.

d -Bất si: Nghĩa là khi nhận làm việc tăng sai chỉ tội vị tỳ kheo khác, sau khi mãn hạ, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị này không được có tâm mù quáng.

e -Tri tự tứ vị Tự tứ: Nghĩa là khi nhận làm việc tăng sai chỉ tội vị tỳ kheo khác, sau khi mãn hạ, phải biết rõ các tỳ kheo cùng trong trú xứ, vị nào đã được chỉ tội theo pháp Tự tứ và vị nào chưa được chỉ tội theo pháp Tự tứ. (Đại chính 22, tr 836b).

Đối với đức tính thứ 5 này, theo Ngũ phần luật 19, là “Tri thời, tri phi thời”). Biết Tự tứ đúng thời và biết tự tứ không đúng thời (Đại chính 22, tr131a).

Sau hỏi tiền phương xong, Thượng tọa bỉnh pháp tiếp tục hỏi:

- Trong chúng có vị nhân giả nào kham năng làm người nhận Tự tứ nhân không?

Vị tỳ kheo hội đủ năm đức tính cần thiết để làm người nhận Tự tứ tự đáp:

- “Tôi tỳ kheo,… kham năng”.

- Thượng tọa bỉnh pháp Bạch nhị yết ma tăng sai tự tứ nhân:

Văn Yết ma như sau:

“Đại đức tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với tăng, tăng chấp thuận sai tỳ kheo có tên,…Làm người thọ Tự tứ. Đây là lời tác bạch!”.

“Đại đức tăng xin lắng nghe! Tăng sai tỳ kheo có tên,… Làm người thọ Tự tứ. Các Trưởng lão nào đồng ý tăng sai tỳ kheo có tên,…Làm người thọ tự tứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói”.

“Tăng đã chấp thuận sai tỳ kheo có tên,… Làm người thọ Tự tứ nhân rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy”.( Đại chính 22, tr836bc).

2.Đơn Bạch Tự Tứ:

Các tỳ kheo thọ sai, từ chỗ ngồi đứng dậy bước ra đảnh lễ tăng. Một trong ba vị được thọ sai bạch tăng chính thức tác pháp Tự tứ.

Văn bạch:

“Đại đức tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với tăng, tăng nay hòa hợp tự tứ. Đây là lời tác bạch”.(Đại chính 22, tr 837a).

3.Chính Thức Tự Tứ:

Thượng tọa bỉnh pháp nói Tự tứ trước. Tiếp theo các vị tự tứ nhân nói tự tứ với nhau. Sau đó lần lược các tỳ kheo từ một đến ba vị nói Tự tứ. Nếu tự tứ nhân đến, mà đứng, thì người nói Tự tứ, có thể đứng hoặc quỳ; nếu vị Tự tứ nhân quỳ, thì người nói Tự tứ phải quỳ.

Văn nói Tự tứ như sau:

“Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng tăng Tự tứ. Tôi tỳ kheo cũng Tự tứ. Nếu có tội được thấy , được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối”. (nói ba lần). (Đại chính 22, tr 837a).

Người nhận Tự tứ đáp: Thiện. Người Tự tứ đáp: Nhĩ.

Sau khi các tỳ kheo tuần Tự tự tứ xong. Vị Tự tứ nhân bước ra giữa Tăng bạch: “Tăng nhất tâm tự tứ đã xong”.

Sau khi vị Tự tứ nhân bạch tăng xong. Phần còn lại là hồi hướng.

IV.Các Pháp Tự Tứ Khác:

1.Tự tứ vắn tắt:

Nếu vì nạn duyên không đủ thời gian để tăng tiến hành đúng tăng pháp Tự tứ, thì phải Tự tứ vắn tắt. Nhưng muốn Tự tứ vắn tắt thì phải yết ma.

Văn bạch: “Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với tăng, tăng nay mỗi mỗi đồng loạt nói Tự tứ ba lần. Đây là lới tác bạch”.( Đại chính 22, tr839a).

Do gặp một trong tám nạn duyên, thì mới tiến hành Tự tứ vắn tắt. Tám nạn duyên gồm: - Nạn vua. - Nạn giặc. - Nạn lửa. - Nạn nước. - Nạn bệnh. - Nạn người. - Nạn phi nhân. - Nạn độc trùng. (Đại chính 22, tr 838c).

Hoặc do bị chướng sự, nên tiến hành Tự tứ vắn tắt. Các chướng sự gồm: - Chúng đông mà giới trường lại hẹp. – Trong tăng có quá nhiều tỳ kheo bệnh, không thể ngồi hoặc quỳ lâu. - Trời mưa lớn. - Gặp đại thí hội mà đêm đi qua đã lâu. - Chướng ngại do đấu tranh. - Hoặc bàn luận A tỳ đàm, đoán sự tỳ ni, thuyết pháp,… mà đêm đi qua đã lâu, chúng tăng chưa đứng dậy, nên Tự tứ vắn tắt. Đại chính 22, tr 838c).

Nếu không có nạn duyên và chướng sự mà Tự tứ vắn tắt là phạm tác. Phạm tác là phạm vào những học xứ quy định làm mà không làm, hoặc làm sai.

2.Tự tứ đối thủ:

Nếu tăng không đủ túc số năm người, không thể tiến hành theo tăng pháp Tự tự, thì thực hành theo Tự tứ đối thủ. Nghĩa là nếu bốn người, thì một người quỳ xuống bạch với ba người; nếu ba người, thì một người quỳ xuống bạch với hai người và nếu hai người, thì hai người quỳ đối diện với nhau mà tác bạch để Tự tứ.

Văn nói Tự tứ đối thủ:

“Ngày nay chúng tăng Tự tứ. Tôi tỳ kheo ,… cũng tự tứ thanh tịnh”. (Đại chính 22, tr 837c).

3.Tự tứ tâm niệm:

Nếu một mình tỳ kheo, thì y hậu tề chỉnh, tâm niệm vào giới trường hay quỳ trước bàn Phật, nghĩ đến ngày Tự tứ tăng, miệng nói: “Hôm nay ngày chúng tăng Tự tứ, tôi tỳ kheo,… thanh tịnh”. (nói ba lâần ). (Đại chính 22, tr 837c- 838a1).

V.Triển Hạn Nhật Kỳ Tự Tứ:

Tăng triển hạn nhật kỳ tự tứ có hai trường hợp:

1.Do tu tập:

Do thời gian an cư, các tỷ kheo tăng tu tập về giới, định, tuệ một cách tinh cần, nên có nhiều an lạc. Vì vậy muốn kéo dài thêm thời gian an cư để thuận lợi cho sự đoạn trừ các lậu hoặc và chứng đắc các Thánh quả Niết bàn. Trường hợp nầy, Tăng có thể tác pháp yết ma triển hạn nhật kỳ Tự tứ tối đa là một tháng.

Tăng trong trú xứ tập hợp tại giới trường, Thượng tọa bỉnh pháp bạch tăng:

“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với tăng. Tăng ngày hôm nay không Tự tứ. Đợi đủ bốn tháng an cư xong sẽ Tự tứ. Đây là lời tác bạch”. (Đại chính 22, tr 840b).

2.Do tăng chưa được thanh tịnh và hòa hợp:

Do các tỳ kheo ở trong cùng một trú xứ có tránh sự mà chưa như pháp dập tắc, hoặc do có các tỳ kheo từ trú xứ khác đến, tăng tại trú xứ an cư chưa sắp xếp yên ổn, nên triển hạn nhật kỳ Tự tứ. Văn bạch tăng:

“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Ngày hôm nay tăng không Tự tứ. Đợi đến ngày 15 (hoặc 16) tháng đến sẽ Tự tứ. Đây là lời tác bạch”.( Đại chính 22, tr 840c).

Nếu đã hết kỳ triển hạn mà sự tranh chấp giữa các tỳ kheo chưa được dập tắt như pháp, tăng có thể triển hạn thêm 15 ngày nữa. Hết thời kỳ triển hạn mà tăng trong trú xứ chưa hòa hợp, hay các tỳ kheo khách cũng chưa rời khỏi trú xứ, thì phải y luật cưỡng bức các tỳ kheo tránh sự phải hòa hợp để Tự tứ, nếu không được, các tỷ theo thanh tịnh đồng ra khỏi cương giới của trú xứ kết tiểu giới để Tự tứ. Tự tứ xong, giải tiểu giới.

VI.Các Trường Hợp Ngăn Tự Tứ:

1.Phạm Tăng tàn:

Trong trú xứ có tỳ kheo phạm tăng tàn, tùy theo mức độ phạm tội mà tăng yết ma cho vị ấy hành pháp đúng theo mức độ phạm tội rồi, mới Tự tứ.

2.Phạm Ba dật đề:

Trong trú xứ có tỳ kheo phạm học giới, có người bảo rằng, đó là phạm Ba dật đề, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la đề đề xá ni, tăng cử một tỳ kheo thanh tịnh, đến dẫn vị tỳ kheo phạm Ba dật đề ấy, hoặc Ba la đề đề xá ni ấy, ra khỏi vị trí giới trường mà mắt thấy tăng tác pháp, nhưng tai không nghe được lời tác pháp của tăng, khuyên bảo vị tỳ kheo phạm Ba dật đề ấy sám hối. Sau đó vị tỳ kheo thanh tịnh dẫn vị tỳ kheo phạm giới ấy đến trước tăng thưa rằng: “ Tỳ kheo phạm tội, tôi đã bảo sám hối rồi”. Phải phương tiện tác pháp như vậy rồi mới Tự tứ.

3.Phạm Thâu lan giá:

Trong một trú xứ, có tỳ kheo phạm Thâu lan giá, có người bảo rằng đó là phạm Thâu lan giá, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la di, khiến có thể dẫn đến sự tranh cãi, không hòa hợp. Nếu sợ bản thể của tăng bị vỡ, thì việc tự tứ của tăng phải dời qua một thời gian thích hợp khác.

4.Ngăn Tự tứ vô căn cứ:

Ngăn cản tỳ kheo không có căn cứ, không đưa ra được nguyên nhân, việc ngăn cản như vậy không thành. Tỳ kheo không thanh tịnh không được ngăn cản tỳ kheo thanh tịnh tự tứ.

5.Ngăn tự tứ có căn cứ:

Ngăn cản tỳ kheo tự tứ có căn cứ, có tác nhân, gọi là ngăn tự tứ có căn cứ.

6.Ngăn Tự tứ khi đang nói:

Ngăn Tự tứ khi đang nói một lần hoặc hai lần, gọi là ngăn Tự tứ khi đang nói. Khi chưa nói hoặc đã nói xong, không thể gọi là ngăn Tự tứ.

7.Ngăn Tự tứ bởi người không thanh tịnh:

Người không thanh tịnh về thân, về ngữ, về ý, không có trí, không biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với những người như vậy không thể ngăn tự tứ, nên tăng vẫn tiến hành Tự tứ.

8.Ngăn Tự tứ bởi thân nghiệp thanh tịnh:

Người thân nghiệp thanh tịnh, nhưng ngữ nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không có nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn Tự tứ, nên tăng vẫn tiến hành Tự tứ.

9.Ngăn Tự tứ với thân nghiệp và khẩu nghiệp thanh tịnh:

Đối với người thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, nhưng ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn Tự tứ, nên tăng vẫn tiến hành Tự tứ.

10.Ngăn Tự tứ với ba nghiệp thanh tịnh, có trí, có phân minh, có biết hỏi và biết đáp:

Nếu vị tỳ kheo nầy ngăn vị tỳ kheo khác không cho Tự tứ, các tỳ kheo khác, nên hỏi vị tỳ kheo ngăn ấy rằng: Vì sao Thầy ngăn tỷ kheo nầy Tự tứ? Vì do phạm giới, phá kiến, hay phá oai nghi?

Vì ấy trả lời, vì phạm giới. Các tỳ kheo, nên hỏi là phạm giới nào? Nếu nói phá kiến, thì hỏi phá kiến nào? Nếu nói phá oai nghi, thì hỏi phá oai nghi nào? Nếu vị ấy trả lời là do có một trong ba mà ngăn. Nếu hỏi cặn kẽ một trong ba ấy, không trả lời được cụ thể, Nên, đối với giới, họ nói phạm Ba la di, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Tăng tàn, rồi tăng mới Tự tứ. Nếu họ nói tội tăng tàn, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Ba dật đề, rồi sau đó Tự tứ,… Nghĩa là vị ấy chỉ đưa ra tội danh mà không đưa ra đầy đủ các yếu tố phạm tội, thì tăng sẽ xử trị dưới mức tội của người ấy đã đưa ra để ngăn người phạm tội trước khi Tự tứ. Và nếu người ngăn Tự tứ có trí trả lời rõ ràng, chứng cứ cụ thể về tội Ba la di của người phạm giới để ngăn Tự tứ, thì tăng phải làm phép diệt tẫn người phạm tội ấy, trước khi Tự tứ.

11.Ngăn Tự tứ từ ba sự:

Ngăn Tự tứ từ ba sự gồm: Kiến, văn và nghi. Nếu do từ ba sự này mà ngăn Tự tứ? Các tỳ kheo hỏi tỳ kheo ngăn tự tứ rằng: Trong ba sự, thầy do sự nào mà ngăn Tự tứ? Nếu vị ấy trả lời từ một trong ba sự một cách cụ thể hay không cụ thể, thì phải tùy theo những chứng cứ trong sự trả lời của vị ấy, sau đó đúng như pháp mà xử trị, rồi Tự tứ. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 839a -840b).

VII.Tự Tứ Liên Hệ Giữa Cựu và Khách:

Theo Luật Tứ Phần 38, Tự tứ liên hệ giữa cựu trú tỳ kheo và khách tỳ kheo như sau:

1.Trú xứ có khách tỳ kheo đến với số lượng nhiều:

Ngày tự tứ, trú xứ nào có khách tỳ kheo đến, các khách tỳ kheo biết những cựu trú tỳ kheo chưa vào giới trường, nhưng họ nói rằng,: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người, có thể tác pháp yết ma Tự tứ”. Và họ liền tác pháp yết ma Tự tứ. Trong khi họ tác pháp yết ma Tự tứ, các cựu trú tỳ kheo đến giới trường với số ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà Tự tứ. Nếu là hàng Hạ tọa, thì theo thứ tự của hàng Hạ tọa mà Tự tứ.

Nếu những cựu trú tỳ kheo đến giới trường với số lượng ít, các khách tỳ kheo đã tự tứ xong, cả chúng chưa đứng dậy, hay hầu hết chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các cựu trú tỳ kheo phải nói: “Thanh tịnh Tự tứ”. Nếu không nói như vậy, là sai luật sẽ bị xử trị như pháp.

2.Trú xứ có tỳ kheo khách đến với số lượng bằng:

Nội dung như điều 1, nhưng số lượng cựu trú tỳ kheo đến giới trường bằng số lượng của khách tỳ kheo, thì các khách tỳ kheo, nên tác pháp cùng Tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.

3.Trú xứ có tỳ kheo khách đến với số lượng ít:

Nội dung như điều 1 và 2, nhưng số lượng cựu trú tỳ kheo đến giới trường nhiều, số lượng tỳ kheo khách ít, dù tỳ kheo khách Tự tứ rồi, cũng nên cùng với các tỳ kheo cựu trú tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.

4.Trú xứ có cựu trú tỷ kheo nhiều, khách tỳ kheo ít:

Ngày Tự tứ, trú xứ nào, có các cựu trú tỳ kheo nhiều, họ đến giới trường và họ biết rằng, các tỳ kheo khách chưa đến, nhưng họ nói: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người có thể tác pháp yết ma Tự tứ”. Trong khi họ tác pháp yết ma Tự tứ, các tỳ kheo khách đến với số lượng ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà Tự tứ; nếu là hàng Hạ tọa, thì cứ thứ tự theo hàng Hạ tọa mà Tự tứ.

Nếu khi tỳ kheo khách đến Tự tứ rồi, nhưng cả chúng chưa đứng dậy, hoặc số đông chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các tỳ kheo khách đến với số lượng ít phải nói: “Thanh tịnh Tự tứ”. Nếu không nói như vậy là sai luật, nên sẽ bị xử trị như pháp.

5.Trú xứ có số cựu tỳ kheo bằng số lượng tỷ kheo khách:

Nội dung như điều 4, nhưng số lượng cựu tỳ kheo và tỳ kheo khách bằng nhau, thì các tỳ kheo cựu với các tỳ kheo khách

nên cùng với các tỳ kheo khách tác pháp tự tứ lại, dù đã đứng dậy hay chưa đứng dậy. Nếu các tỳ kheo cựu không tác pháp Tự tứ lại là sai luật sẽ như pháp xử trị.

6.Trú xứ số cựu tỷ kheo ít, số lượng tỳ kheo khách nhiều:

Nội dung như điều 4 và 5, nhưng số lượng cựu tỳ kheo ít, số lượng tỳ kheo khách nhiều, số cựu tỳ kheo dù tác pháp Tự tứ rồi, cũng nên cùng với tỳ kheo khách tác pháp Tự tứ lại. Nếu không là sai luật, sẽ như pháp xử trị.

7.Trú xứ cựu tỳ kheo có treo dấu hiệu:

Nếu ngày Tự tứ, tỳ kheo khách đến nơi một trú xứ nào đó, thấy các tỳ kheo cựu trú có treo những dấu hiệu đã Tự tứ, mà không tìm hỏi, liền tác pháp yết ma Tự tứ. Tác pháp yết ma tự tứ như vậy là bất thành mà lại bị tội.

Nếu thấy rồi, liền tìm. Tìm được các tỳ kheo cựu trú rồi, cùng nhau hòa hợp tác pháp yết ma Tự tứ. Tác pháp yết ma như vậy là thành tựu,...

8.Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, Sa di ni đều không được phép ngăn tác pháp yết ma Tự tứ của tỳ kheo. Các tỳ kheo không được trước tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di ni, tác pháp yết ma Tự tứ hoặc ngăn Tự tứ.

9.Các cư sĩ không được ngăn tác pháp tự tứ của các tỳ kheo và các tỳ kheo không được tác pháp yết ma Tự tứ và ngăn Tự tứ trước mặt các cư sĩ.

Bấy giờ vua Ba tư nặc sai quân lính đến hộ vệ chúng tăng. Các tỳ kheo nói với binh lính rằng: “Quý vị nên đi ra ngoài một chút, chúng tôi muốn tác pháp yết ma Tự tứ”.

Quân lính nói: “ Nhà vua sai chúng tôi đến đây để hộ vệ chúng tăng, nên chúng tôi không dám rời đi chỗ khác”.

Các tỳ kheo liền thưa đức Phật việc ấy, Ngài dạy: “Các thầy nên yêu cầu họ tránh một lần nữa. Nếu họ tránh thì tốt, nếu họ không tránh, thì các tỳ kheo nên đến chỗ mà họ không thấy không nghe để tác pháp yết ma Tự tứ, chứ không được ở trước người chưa thọ đại giới mà tác pháp yết ma Tự tứ”. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 841a – 843b).

VIII .Tránh Những Sai Lầm Khi Thực Hành Pháp Tự Tứ

Theo Luật Tứ Phần 37, 38, những sai lầm trong khi Tự tứ cần phải tránh như sau:

1.Tránh đồng loạt Tự tứ gây nên ồn ào. Tự tứ từng người một.

2.Tự tứ theo tăng Pháp, tỷ kheo phải Tự tứ từ Tự tứ nhân, không được tùy ý Tự tứ.

3.Không được ngồi tại chỗ để Tự tứ, phải rời chỗ ngồi và quỳ để Tự tứ.

4.Thượng tọa rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ, tăng tỷ kheo cũng phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.

5. Không được có ý nghĩ lén nói Tự tứ, sợ tỳ kheo khác, vì mình tác yết ma hoặc ngăn mình Tự tứ. Phải nói Tự tứ một cách rõ ràng, đầy đủ, khiến cho người khác nghe được.

6- Không được có ý nghĩ, ta nên Tự tứ nhanh; nếu không, tỳ kheo khác vì ta tác yết ma ngăn Tự tứ. Đức Phật cho phép an cư rồi thong thả Tự tứ.

7- Không được nói Tự tứ một lần, phải nói Tự tứ ba lần.

8- Không được lật ngược Y, quấn Y nơi cổ, trùm trên đầu hoặc phủ cả hai vai để Tụ tứ; không được mang dép hoặc ngồi trên giường hoặc trên đất để Tự tứ. Phải trạc Y bên phải, quỳ chắp tay nói lời Tự tứ. Tỳ kheo bệnh, thì tùy duyên thích hợp để Tự tứ.

9.Tự tứ không được ngồi ở ngoài thuyết giới đường. Tự tứ nhân phải bạch tăng, trước khi nói Tự tứ.

10.Không được tự tứ phi pháp biệt chúng. Không được Tự tứ phi pháp hòa hợp chúng. Không được Tự tứ như pháp biệt chúng. Phải Tự tứ như pháp hòa hợp chúng.

11.Trong trú xứ có vị tiền an cư, có vị hậu an cư thì nhật kỳ Tự tứ phải thuận theo số đông để Tự tứ.

12.Tự tứ vào ngày mười bốn hoặc rằm, sau giờ Đại thực hay tiểu thực.

13. Vì hoàn cảnh, nếu nơi không có giới trường, Thượng tọa phải tập tăng, bạch nhị yết ma kết tiểu giới với không gian vừa đủ cho các tỳ kheo Tự tứ ngồi kín vòng, để tác pháp Tự tứ và sau khi Tự tứ xong, phải bạch nhị yết ma giải tiểu giới trước khi đi.

14.Tăng năm vị, trong đó có một người thọ dục, thì không được tác pháp bạch nhị yết ma cử Tự tứ nhân. Vì không đủ túc số tăng như pháp.

15.Tăng chỉ có bốn vị hiện diện, không được nhận dục của người thứ năm, tức là người vắng mặt. Nếu chỉ có ba người, không được nhận gởi dục của người thứ tư. Phần còn lại cũng nên hiểu như vậy.

16- Tâm niệm Tự tứ không có dự dục.

17.Khi Tự tứ không biết tội, không biết người, nhưng sau khi Tự tứ xong lại biết tội, biết người. Tuy vậy, nhưng không được đem những việc đã qua để cử tội lại.

Khi Tự tứ không biết tội, nhưng biết người. Tự tứ rồi biết tội, biết người, nhưng không được đem việc cũ của người mà cử tội lại.

Khi Tự tứ biết tội, nhưng không biết người. Nhưng, nếu Tự tứ rồi không được đem việc cũ của người mà cử tội lại. (Tham khảo Tứ Phần Luật 37, 38, Đại chính 22, từ tr 836c – 840).

IX.Sau Tự Tứ:

Sau Tự tứ, các tỳ kheo có thể rời khỏi trú xứ an cư để đi hoằng đạo, nhưng trước khi các tỳ kheo rời khỏi trú xứ, tăng phải tác pháp yết ma giải đại giới an cư và kết lại đại giới của trú xứ. Vì khi an cư tỳ kheo tăng các nơi về tập trung đông tại trú xứ, do đó phải yết ma mở rộng đại giới, nay xuất hạ các tỳ kheo tùy duyên hoằng hóa, nên phải kết lại đại giới của trú xứ cho thích hợp.

Tăng có thể tác pháp thọ ca thi na y, để tiện việc cho các tỳ kheo cất giữ vải trong vòng ba mươi ngày đủ để may y mới, không bị phạm vào các học xứ quy định liên hệ đến việc chứa vải và rời y để nghỉ qua đêm.

Và sau khi an cư xong, thì tăng phân chia bình đẳng các lợi dưỡng đến các tỳ kheo, do tín đồ cúng dường suốt ba tháng, sau khi đã sử dụng cho việc an cư của tăng còn dư lại.

X.Chánh Pháp Tồn Tại

Chánh pháp tồn tại đúng ý nghĩa và có lợi ích thiết thực cho thế gian hay không là vai trò của Tăng đoàn. Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợp và thanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợp và thanh tịnh. Hòa hợp và thanh tịnh là bản thể của Tăng đoàn và là pháp lý tồn tại của tổ chức giáo đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn trên thế gian này.

Sự tồn tại và phát triển của Tăng đoàn dựa trên bản thể hòa hợp và thanh tịnh, đó là sự tồn tại chuyển tải đúng nội dung của chánh pháp. Chánh pháp tồn tại và được chuyển vận từ ý nghĩa này mà lan rộng từ một trú xứ đến nhiều trú xứ, từ một quốc gia đến toàn thể thế giới.

Tuy rằng, các tỳ kheo sinh hoạt nhiều trú xứ và nhiều quốc gia khác nhau, có những dị biệt về phong tục tập quán, nhưng họ thống nhất với nhau về một bậc Thầy giác ngộ, đó là Đức Thế Tôn. Họ thống nhất với nhau về Pháp là Pháp Bát Chánh đạo. Họ thống nhất với nhau về bản thể tỳ kheo thành tựu từ pháp bạch Tứ yết ma. Họ thống nhất với nhau về Tăng là bốn tỷ kheo trở lên cùng sinh hoạt với nhau trong bản thể hòa hợp và thanh tịnh. Họ sống hòa hợp và thanh tịnh với nhau trong các tăng sự thuyết giới, an cư, tự tứ và các pháp sự khác.

Thống nhất của Tăng đoàn như vậy, không phải đơn thuần là thống nhất về mặt tổ chức và hành chánh mà thống nhất ngay nơi nguồn gốc và bản thể. Bất cứ pháp gì có cùng một nguồn gốc và bản thể, tự nó là thống nhất.

Ở trú xứ nào, không có các tỳ kheo cùng nhau hòa hợp, thanh tịnh, không cùng nhau thuyết giới, an cư và tự tứ đúng pháp, thì trú xứ ấy xem như không có tăng bảo trú trì và ở xứ sở đó chính pháp chưa được chuyển vận, mặt trời chính pháp chưa được sáng lên, ruộng đồng chính pháp chưa được cày xới, quần chúng trú xứ ấy lấy ruộng ở đâu mà gieo trồng hạt giống phước đức?

Do đó, Pháp an cư của Tăng từ Đức Thế Tôn chế định; Pháp tự tứ của Tăng cũng từ Đức Thế Tôn chế định. Pháp ấy phù hợp với an tịnh của Niết bàn. Và Tăng chỉ đúng nghĩa là tăng, khi mọi sinh hoạt của Tăng đều được biểu hiện từ nơi Phật và Pháp. Pháp an cư của tăng là một trong những biểu hiện cụ thể ấy. Và do sự biểu hiện ấy mà chính pháp trường tồn, làm cho thế gian bớt tăm tối và là phước điền cho thế giới chư thiên và loài người gieo trồng phước đức vậy.

Thích Thái Hòa
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Nếu bạn stress nặng, hãy tìm Thiền buông thư

Đời sống 11:34 07/12/2018

Chúng ta đã tích tụ những căng thẳng lâu ngày trong thân thể qua cách sống hằng ngày của mình trong việc ăn, uống, sinh hoạt. Vì thế sức khỏe của chúng dần dần bị hao mòn. Thiền buông thư là cơ hội để cho thân tâm được nghỉ ngơi, được chữa trị và hồi phục. Chúng ta để cho toàn thân được buông lỏng, đưa sự chú tâm và gởi tình thương lần lượt đến từng tế bào, từng bộ phận của cơ thể. Hãy cùng sư cô Chân Không tập Thiền buông thư.

Thông minh và đạo đức… 1

Đời sống 11:30 20/11/2018

Thông minh thiếu đạo đức là mối họa cho bản thân lẫn xã hội. Nhân loại ngày nay trọng dụng trí thông minh mà bỏ quên đạo đức sẽ đưa đến hỗn loạn và họa diệt vong. Thông minh và đạo đức là tố chất tối cần cho cuộc sống.

Thăm Thầy Thích Nhất Hạnh chúc mừng Tết thầy trò ngày cuối tuần

Đời sống 18:16 17/11/2018

Ngày 20 tháng 11 là ngày hội lớn của các thầy cô giáo. Ngày này chúng ta đã luôn đón một cách hào hứng và đầy hạnh phúc với tên gọi là Tết thầy trò theo ý tưởng của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng - Chủ tịch công ty sách Thái Hà.

Nói và làm

Đời sống 09:45 17/11/2018

“Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nói là thế đấy, lời nói đáng giá nghìn vàng. Và nó sẽ càng đáng trân trọng hơn khi được đem ra thực hành. Bởi thế “Nói và làm trong cuộc sống” đang là một trong những vấn đề được mọi người quan tâm, đặt ra trong lòng mọi người những dấu chấm hỏi.

Xem thêm