Siêu độ kẻ còn người mất
Siêu độ là dùng sự hiểu biết và thực hành, tín ngưỡng và kinh nghiệm tu học Phật pháp, giúp cho người ta từ trong khổ nạn đạt được an lạc, từ trong nguy hiểm đạt được an toàn, từ trong trói buộc đạt được giải thoát.
Siêu độ gồm có hai loại lớn: 1. Siêu độ đối với vong linh; 2. Siêu độ đối với người sống.
Ý nghĩa siêu độ là dùng sự hiểu biết và thực hành, tín ngưỡng và kinh nghiệm tu học Phật pháp, giúp cho người ta từ trong khổ nạn đạt được an lạc, từ trong nguy hiểm đạt được an toàn, từ trong trói buộc đạt được giải thoát.
Siêu độ vong linh:
Trong ấn tượng của người Trung Quốc nói chung, cho siêu độ là làm Phật sự, chỉ vì người mất làm các nghi thức như niệm Phật, tụng kinh, bái sám, Mông sơn thí thực, Diệm khẩu thí thực … nhờ sức Phật siêu tiến, khiến cho người mất được vãng sinh Phật quốc hoặc chuyển sinh cõi lành.
Do đó, đối với người Trung Quốc, siêu độ có hai ý nghĩa: một là theo thói tục, trong nhà có người qua đời, theo tập quán mời Tăng Ni hoặc Đạo sĩ đến tụng kinh, cử hành một số nghi thức tôn giáo, mới cảm thấy an tâm, ngược lại không những bị thân hữu bàn tán mà dường như trong tâm cũng không yên. Xin hỏi đó là vì siêu độ người sống, hay là vì siêu độ người chết? Thật ra, rất mập mờ, chính vì cầu an tâm nên mới mời Tăng Ni Đạo sĩ đến niệm kinh siêu độ, người này không nhất định tin người mất có ích lợi, chỉ vì không dám làm trái với tập tục mà thôi. Hai là thật vì siêu độ vong linh, tin tưởng Phật pháp có thể khiến cho người mất siêu sinh thoát khổ, lúc sắp mạng chung vì họ mà trợ niệm. Mỗi thất đều có tụng kinh, trong 49 ngày thường làm Phật sự, tu phước cúng dường, nhờ lời kinh tiếng kệ và danh hiệu Phật Bồ tát, khiến cho vong linh nghe được hiểu được và bỏ những oán hận, buồn bực trong tâm, cùng tất cả các thứ chấp trước, nhờ đó mà tâm khai ý mở, không bị đọa vào ác đạo, được sinh về thiện đạo, nếu thiện căn sâu dầy có thể vãng sinh Tịnh độ của Phật A Di Đà. Hoặc nương theo nguyện lực từ bi của Phật Bồ tát, siêu độ vong linh thoát khỏi khổ thú, phương pháp này nên y theo lời dạy trong kinh Địa Tạng mà thực hành.
Phương pháp siêu độ vong linh theo như trong kinh Phật có thể nêu ra hai cuốn như:
1. Kinh Vu Lan Bồn: kinh này do đức Thích Ca vì Tôn giả Mục Kiền Liên muốn siêu độ vong mẫu bị đọa trong loài ngạ quỷ mà nói. Phương pháp siêu độ là vào lúc chư Tăng tự tứ trong ngày 15 tháng 7 “sắm cơm trăm vị trái cây năm thứ, đặt vào trong bồn các thứ dầu thơm, đèn cầy, tất cả những thứ ngon ngọt cùng giường nằm chiếu lót, cúng dường mười phương đại đức chúng Tăng”. Người cúng dường các thứ ấy cho chư Tăng nhân ngày tự tứ, hiện tại cha mẹ, sáu loại thân thuộc được ra khỏi cảnh khổ tam đồ, liền được giải thoát, ăn mặc tự nhiên đầy đủ. Nếu cha mẹ hiện còn được hưởng phước lạc trăm năm, nếu đã mất rồi, cha mẹ bảy đời được sinh lên trời, tự tại hóa sinh, được vào cõi trời Hoa Quang, hưởng vô lượng khoái lạc. Đó là lấy công đức cúng dường Tăng ngày 15 tháng 7 làm Phật sự siêu độ tiên vong, trước lúc cúng dường thỉnh cầu chư Tăng tụng kinh niệm Phật siêu độ cho người mất.
2. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện: được lưu truyền tương đối sâu rộng trong Phật giáo Trung Quốc, vì kinh này đề xướng tư tưởng hiếu thân, lại đề xướng pháp môn siêu độ vong thân cẩn trọng đối với người chết, cho nên đặc biệt được dân tộc Trung Quốc tôn sùng vì rất gần với văn hóa Nho gia. Trong kinh Địa Tạng có nói: “Chúng sinh tạo ác ở Diêm Phù Đề, người mới chết, sau khi trải qua 49 ngày không người kế tự, vì họ mà làm công đức, cứu bạt khổ nạn, lúc sống lại không làm được nhân lành, căn cứ tội nghiệp xưa mà cảm nơi địa ngục”. Lại nói: “Như sau khi người đã chết, lại có thể trong 49 ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể giúp cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sinh lên cõi trời hoặc người hưởng lấy nhiều sự rất vui”. Lại có đoạn nói: “Thần hồn vơ vẩn mịt mờ, chưa rõ là tội hay phước, trong 49 ngày như ngây như điếc… Người mất đó lúc chưa được thụ sinh, trong 49 ngày luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt họ. Qua khỏi 49 ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo”. Những dẫn chứng trên nêu rõ người ta sau khi chết trong vòng 49 ngày mong muốn thân bằng quyến thuộc vì họ mà làm phước để siêu độ, qua khỏi thời gian đó phải chuyển sinh tùy theo nghiệp mà thọ báo. Tuy siêu độ vẫn có một số tác dụng, nhưng không phải hữu dụng liền.
Đặc biệt trong thất đầu rất là trọng yếu, kinh Địa Tạng nói: “Giả sử thần thức của người ấy phân tán đến hơi thở đã dứt, thời 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày cho đến 7 ngày, lớn tiếng tán thán (ca ngợi việc tu phước hành thiện của người chết), lớn tiếng tụng kinh, sau khi người đó chết cho dù tội nặng từ trước như tội ngũ vô gián cũng vĩnh viễn được giải thoát”. Điều này nói rất rõ siêu độ cho người chết trong thời gian bảy ngày đầu rất tốt.
Thế nhưng, siêu độ tốt nhất vẫn là lúc còn sống tự mình phải tu hành. Cho nên, kinh Địa Tạng nói: “Sau khi người mạng chung, hàng quyến thuộc lớn nhỏ, vì người chết mà làm các điều phước lợi, tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức, người chết hưởng một phần, còn sáu phần công đức người sống hưởng. Vì cớ ấy nên những thiện nam tín nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói này nên cố gắng tu hành sẽ hưởng trọn phần công đức”. Nếu lúc sống chưa biết tin Phật, chưa tu các thiện pháp, sau khi chết còn ở giai đoạn trung ấm thân trong vòng 49 ngày mới phải nhờ thân thuộc vì họ tu phước siêu độ. Như lúc còn sống sớm tin Phật pháp, tinh tấn niệm Phật hồi hướng cầu nguyện vãng sinh Tịnh độ phương Tây, đến lúc lâm chung liền có ba vị Thánh: một vị Phật và hai vị Bồ tát ở phương Tây đến tiếp dẫn, thân nhân thiện hữu vì người đó mà trợ niệm, giúp cho tín tâm người đó được tăng trưởng, vãng sinh Cực lạc quốc. Cho nên, trong các kinh luận đều khuyến tấn người ta lúc sinh tiền nên cố gắng tu hành.
Siêu độ người sống:
Siêu độ người sống quan trọng hàng đầu. Sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo, kinh pháp mà Ngài nói, đối tượng chủ yếu trong các bộ kinh Đại Tiểu thừa chính là bảy chúng đệ tử tại nhân gian, kế đến là thiên thần, cho nên gọi Phật là thầy của trời người hoặc giáo chủ của người trời.
Chúng hội trong các kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, ngoài chư Phật Bồ tát và hàng nhị thừa Thánh giả là thất chúng nhân gian và bát bộ thiên chúng. Chúng sinh ở ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh không có phước báu tham dự đại hội. Tuy trong kinh Địa Tạng quyển Trung có nói: “Đức Thế Tôn… nói khắp tất cả cõi nước chư Phật, chư Bồ tát ma ha tát và thiên long quỷ thần, nhân cùng phi nhân … nghe ta ngày nay ca ngợi tán thán ngài Địa Tạng Bồ tát ma ha tát”. Đủ chứng tỏ quỷ thần nói trên là chỉ cho quỷ nhiều phước chứ không phải quỷ tội ác hoặc ngạ quỷ, nên được xem là quỷ thần ở Địa Cư thiên và Không Cư thiên. Vì thế, trong kinh Địa Tạng lại nói: “Tuyên thuyết về các việc nhân quả của ngài Địa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng trời người… vì các ông nói lược về những phước đức của ngài Địa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho người và trời”. Kinh Vô Lượng Thọ cũng vì: “Khai hóa cho tất cả chư thiên và nhân dân mà nói kinh này”. Đặc biệt cường điệu lợi ích nhân thiên, chính là biểu thị sự siêu độ chủ yếu của Phật pháp là con người (nhân), thứ đến là trời (thiên).
Trong quyển 36 kinh Tăng Nhất A Hàm, nói rõ lúc đức Phật ra đời, vì người trời mà rộng diễn giáo pháp, đạt đến chỗ Niết bàn. Vậy mà chúng sinh ở trong địa ngục, loài súc sinh, ngạ quỷ, người sống ở biên địa, ở Trường thọ thiên đều không nghe, không thấy. Quyển 26 kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Chư Phật Thế Tôn, đều xuất hiện nơi nhân gian”. Lấy thân thể loài người để thành Phật, cũng lấy loài người làm đối tượng chủ yếu để nhiếp hóa họ. Cho nên, cha của Da Thâu Già, vị đệ tử tại gia đầu tiên của Phật là người. Đức Phật tại Lộc Uyển sơ chuyển pháp luân độ năm vị đệ tử Tỳ kheo là người. Thường theo Phật có 1250 vị đại A la hán toàn là người. Cho đến lúc Ngài sắp nhập Niết bàn, người đệ tử cuối cùng được độ là Tu Bạt Đà La 120 tuổi cũng là người. Đủ chứng tỏ đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên mặt lịch sử, đệ tử Tăng tục bảy chúng theo Ngài tu học đều là loài người. Như vậy tương lai lúc đức Phật Di Lặc hạ sinh nhân gian, các đệ tử của Ngài ở nội viện Đâu Suất, cũng đều phải hạ sinh nhân gian, dùng thân phận con người, nghe Phật pháp, rồi chứng đạo giải thoát.
Siêu độ đối với người sống, ý là vận dụng sự tin hiểu tu chứng pháp của Phật mà siêu việt nhà lửa tam giới, vượt qua biển khổ sinh tử.
Ví dụ nhà lửa xuất phát từ phẩm Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa, như: “Tam giới không an, giống như nhà lửa. Các khổ lẫy lừng, thật đáng sợ hãi, thường có các thứ sinh già bệnh chết lo sợ … như lửa cháy mãi không dứt”. Cho nên, lấy xe dê, xe nai, xe trâu lớn để thí dụ Phật nói pháp phương tiện và pháp cứu cánh như nhị thừa, tam thừa và duy nhất Phật thừa nhằm đưa chúng sinh ra khỏi nhà lửa sinh tử trong tam giới. Thí dụ biển khổ được thấy rất nhiều trong các kinh:
1. Phẩm Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa nói: “Ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong biển khổ”;
2. Kinh Lăng Nghiêm quyển 4 có nói: “Hướng dẫn chúng sinh u mê ra khỏi biển khổ”;
3. Kinh Tâm Địa Quán nói: “Thường ở trong biển khổ sinh tử làm đại thuyền sư cứu vớt chúng sinh”.
Nếu theo thứ tự nhân quả trước sau mà xét thì nhà lửa là phiền não tham sân… Biển khổ là quả báo của sinh tử… Nếu chúng sinh không kịp thời tu học Phật pháp, siêu thoát biển khổ sinh tử ba cõi, thì cứ mãi mãi từ nơi phiền não mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chịu khổ báo, lúc thọ khổ báo lại sinh phiền não mà tạo nghiệp, về sau lại chịu khổ báo nữa, cứ thế mà xoay vần nổi chìm trong biển lớn vô biên.
Ở trong biển khổ sinh tử mênh mông này, làm thế nào để được lên bờ, nếu không nhờ vào sự cứu độ của thuyền từ Phật pháp, thì khó có hy vọng thoát ra khỏi. Thuyền từ Phật pháp là những lời dạy của đức Phật như Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, Cụ túc giới, Bồ tát giới cho đến Tam học giới định huệ, hoặc Lục độ tứ nhiếp, tự lợi lợi tha.
Đức Phật đầu tiên thuyết pháp ở Lộc Dã Uyển, tức là chuyển pháp luân Tứ đế gồm khổ tập diệt đạo. Biết có khổ thì không tạo tác nhân để chịu khổ, muốn diệt tuyệt gốc khổ thì phải tu chứng Bát chánh đạo, 37 Bồ đề đạo phẩm, cho đến tất cả pháp môn như tam học, lục độ… không chỉ tự cầu diệt khổ, cũng cần phải giúp người diệt khổ, tự lợi rồi phải lợi tha. Chúng ta cần phải học hiểu các pháp trên, vận dụng chúng để được lợi ích cho mình và cứu giúp mọi người.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm