Vị trưởng lão dịch kinh sẽ được dựng tượng đài tại Đại học Nalanda
Đó là Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu. Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, dịch thuật mà còn nhiều giá trị khác...
Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu - Người sáng lập, bậc tiền bối có công rất lớn với đạo pháp và dân tộc trong suốt cuộc đời của Ngài.
Ngài đã đóng góp cho Đạo trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là trong công tác dịch thuật kinh điển.
Lời Ban Biên tập
Kinh Phật là một tạng trong Tam tạng Thánh điển, gồm kinh - luật - luận. Trong loạt bài "Sự diệu dụng của kinh Phật", khởi đăng từ ngày 1/1/2025, Ban Biên tập mong muốn giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn về hệ thống kinh tạng Bắc truyền, Nam truyền, những công năng, diệu dụng khi tụng đọc, ứng dụng vào đời sống; sự mầu nhiệm của tâm kinh, tụng kinh Pali/ Nguyên thủy khó không; ấn tống kinh sách và giá trị...
Kính mời quý vị cùng theo dõi loạt bài này và có chia sẻ, góp ý, lan tỏa nếu thấy lợi lạc cho tự thân cũng như người hữu duyên.
Tu học và trăn trở với dịch kinh
Được biết, Hòa thượng họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVN Thống nhất, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Năm 1946, ngài đầu sư với Hòa thượng húy thượng Trừng hạ Thông, tự Chơn Thường, hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVN Thống nhất) tại tổ đình Tường Vân, thuộc làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được bổn sư ban cho pháp danh là Tâm Trí. Trải qua những tháng ngày hầu thầy và chấp tác nặng nhọc tại tổ đình cũng như việc Hội, Hòa thượng không bao giờ trễ nãi. Người lúc ấy vừa là giảng sư, vừa là chú điệu đang tập sự thực hành nếp sống thiền môn.
Công đức đã đầy đủ, năm 1949 (Kỷ Sửu) Hòa thượng được bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc do chính bổn sư làm Đàn đầu Hòa thượng. Trong Đại giới đàn này, Hòa thượng được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam đàn cụ túc và Hòa thượng bổn sư ban cho pháp tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung.
Trong quá trình nghiên cứu Kinh Luật Luận Hán tạng, Hòa thượng thấy cách phiên âm các từ ngữ Pali, Sanskrit mỗi người mỗi khác, khiến bản văn trở nên khó hiểu. Từ đó, Hòa thượng xin phép bổn sư và Hội Phật học Trung Phần cho phép mình xuất dương tu học tại Sri Lanka và Ấn Độ về Kinh Luật Luận Pali và Sanskrit, nguyện sau này về nước tiếp tục phiên dịch kinh điển làm phong phú kho tàng Tam tạng nước nhà.
Năm 1952, được sự chấp thuận của Giáo hội và Hòa thượng bổn sư, Hòa thượng xuất dương du học tại Sri Lanka, học Pali và Anh văn tại Colombo. Năm 1955, Hòa thượng được Trường Đại học Tích lan tặng bằng Pháp sư (Saddammcariya). Sau đó, Hòa thượng sang Ấn Độ và theo học tại Nava Nalanda Mahavihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ).
Với luận án “So sánh tập Pali Trung bộ kinh với tập Trung A hàm chữ Hán” (The Chinaese Madhyama gama and The Pali Majjhima Nikaya), tháng 9 năm 1961, Hòa thượng là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ Phật học, Văn học Pali tại Ấn Độ, được đích thân Tổng thống Ấn Độ thời ấy đứng ra trao văn bằng Danh dự và khen ngợi không ngớt về luận văn này. Năm 1962-1963, Hòa thượng được Đại học Bihar (Ấn Độ) mời ở lại giảng dạy tại đây. Trước khi về nước, Hòa thượng đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Anh như: “Huyền Trang nhà chiêm bái và học giả”; “So sánh tập Pali Milindapanha với tập Na-Tiên Tỷ-kheo chữ Hán”; “Pháp Hiển - nhà chiêm bái khiêm tốn”. Năm 1964, Hòa thượng trở về nước tiếp tục trước tác và dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị cho hàng xuất gia và tại gia tu học.
Sự uyên bác, thấu hiểu sâu sắc về Phật pháp của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu có ý nghĩa lớn lao để cộng đồng quốc tế hiểu hơn về Phật giáo Việt Nam.
Sau khi trở về nước, Ngài đã khởi xướng và hoàn thành việc dịch thuật 5 bộ kinh tạng Pãli sang tiếng Việt, bao gồm Trường Bộ kinh, Trung Bộ kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh và Tiểu Bộ kinh. Những bản dịch này không những trở thành nền tảng giảng dạy cốt lõi cho hệ thống Phật học tại Việt Nam, mà còn là một công trình kinh điển có giá trị to lớn đối với các học giả và phật tử trên thế giới. Di sản này đã góp phần lan tỏa giáo lý Phật giáo không riêng gì trong lãnh thổ Việt Nam, mà vượt ra khỏi biên giới, chạm đến trái tim của nhiều người dân, nhiều vùng lãnh thổ khác.
Sự nghiệp văn chương, dịch thuật
Tham luận của Hòa thượng Gia Quang nêu rõ, trong sự nghiệp văn chương đầy cống hiến, Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã đem tiếng nói của mình đại diện cho tiếng nói, tư tưởng tu sĩ Việt, thể hiện qua văn học, góp phần nâng hình ảnh Phật giáo Việt Nam trong mắt cộng đồng học giả và Phật tử toàn cầu. Những tác phẩm tiếng Anh của Ngài như "Huyền Trang - Nhà chiêm bái và học giả", "So sánh tập Pali Milinda-Panha với tập Na-Tiên Tỳ kheo chữ Hán" và "Pháp Hiển - Nhà chiêm bái khiêm tốn" đều mang giá trị học thuật to lớn, vừa mở rộng tri thức Phật học, vừa khẳng định vai trò của Việt Nam trong nền giáo lý Phật giáo thế giới.
Bằng các công trình văn học này, Hòa thượng Thích Minh Châu vừa ẩn ý truyền tải thông điệp của Phật giáo Việt Nam, vừa đóng góp quan trọng vào lĩnh vực so sánh tôn giáo tín ngưỡng, văn hóa giữa Ấn Độ và Trung Quốc – Đây được coi là hai nền văn minh có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo trong khu vực. Ngài giúp các học giả quốc tế hiểu rõ hơn về sự khác biệt và tương đồng giữa hai truyền thống Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền, từ đó khuyến khích một cái nhìn khách quan, toàn diện, thái độ tôn trọng lẫn nhau.
Tác phẩm của Ngài góp phần làm sáng tỏ sự phát triển tư tưởng Phật giáo qua các vùng địa lý khác nhau, đề cao tinh thần đoàn kết và từ bi trí tuệ - những giá trị cốt lõi của Phật giáo.

Những tác phẩm và hoạt động đối ngoại của Hòa thượng Thích Minh Châu đã trở thành cầu nối văn hóa giữa các quốc gia, xét riêng tại các nước châu Á, cũng như giữa phương Đông và phương Tây. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo đang trở thành chìa khóa quan trọng để xây dựng hòa bình và ổn định quốc tế. Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu, với vai trò là nhà văn, nhà nghiên cứu và nhà ngoại giao văn hóa, đã đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng cây cầu kết nối đó, mang lại sự thấu hiểu, nói lên thái độ bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, các quốc gia trên toàn thế giới.
Đại học Nalanda (Ấn Độ) dựng tượng Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu
Ngày 5/9/2024, GS.TS Rajesh Ranjan, Hiệu trưởng trường Đại học Nalanda, Ấn Độ đã gửi thư tới Hòa thượng Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam trao đổi về ý tưởng dựng tượng đài Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu tại Đại học Nalanda.
Đại học Nalanda là trung tâm giáo dục Phật giáo hàng đầu thế giới, sự kiện dựng tượng này chính là một minh chứng rõ nét cho sự nghiệp quốc tế hào hùng của Trưởng lão Hoà Thượng Thích Minh Châu, tôn vinh những cống hiến vĩ đại của ngài cho cộng đồng Phật học quốc tế.
Theo Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, di sản mà Trưởng lão Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình, thúc đẩy sự tôn trọng giữa các tôn giáo và tạo dựng một thế giới đầy yêu thương. Mong rằng những giá trị cao quý ấy sẽ mãi mãi được bảo tồn, được ươm mầm lớn mạnh, làm rạng ngời đạo pháp cùng với đời sống nhân loại.
"Hòa thượng đã để lại những thành tựu lớn lao trên nhiều mặt. Hòa thượng đã đào tạo nhiều thế hệ tăng ni tài đức, cư sĩ, phật tử hữu danh, có ích cho đạo và đời, đã và đang phục vụ trong các cấp Giáo hội từ Trung ương đến địa phương, trong nước và nước ngoài, góp phần xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam.
Trưởng lão Hòa thượng chính là hình ảnh giải thoát vô ngại. Trong suốt cuộc đời, Ngài luôn luôn giữ thái độ hiền hòa, thấm nhuần giáo nghĩa “bát phong xuy bất động”. Hòa thượng luôn giữ cuộc sống thanh đạm, giản dị vượt thắng mọi sự đối đãi khen, chê… trở thành một trong những vị danh tăng có uy tín và ảnh hưởng nhất của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX", Hòa thượng Gia Quang nhận định.

Còn Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, CEO Thái Hà Books bồi hồi khi nhắc đến Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu. "Tôi không thể quên bản Kinh đầu tiên được nghe Hòa thượng Thích Minh Châu giảng và được nghe bác Vũ Chầm liên tục nhắc đến là Kinh “Nhất Dạ Hiền Giả”. Đây là 1 trong 2 bản Kinh tôi học thuộc lòng đầu tiên (cùng với Kinh Phước Đức)".
Theo TS Hùng, sau này, nghe giảng, tìm hiểu, khám phá, đọc dần ông mới thấy có một bản Kinh rất quan trọng là Kinh Niệm xứ (Kinh số 10 của Trung Bộ Kinh) và Kinh Đại Niệm Xứ (Kinh số 22 của Trường Bộ Kinh).
"Hai bản Kinh này tôi đọc kỹ, học thuộc ngay từng đoạn! Đây là mấu chốt để tôi theo học, tư duy và thực hành thiền chính niệm. Rồi tôi đi tìm bản Kinh đầu tiên mà Đức Phật giảng. Tôi tìm bản Kinh cuối cùng trong 45 năm thuyết Pháp của Đức Thế Tôn. Có ngay Kinh Chuyển Pháp Luân cùng Kinh Đại Bát Niết Bàn. Thật sự là vi diệu. Tôi phát tâm thuộc lòng ngay khi đó. Để nhớ, để tư duy, suy ngẫm, quán chiếu, để thực hành".
Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng xúc động, vì từ những bản Kinh căn bản ban đầu này ông mới phát hiện ra con đường tu theo Chính Pháp là 4812737 tức là Tứ Thánh Đế + Bát Chính Đạo + 12 nhân duyên + 7 con đường (Tứ niệm xứ, Tứ chính cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chính đạo) + với 37 chi phần Đạo Đế.
"Tôi biết rằng chỉ cần đọc, học, tư duy, thực hành theo công thức này cũng là quá đủ", Tiến sĩ Hùng nói về lòng biết ơn vị Trưởng lão dịch kinh.
Kho tàng đồ sộ
Mặc dù bận rộn nhiều công việc cho Giáo hội, cho Quốc hội, cho việc giảng dạy, nhưng trọng tâm chính vẫn là dịch kinh và giảng kinh. Từ khi về nước cho đến nay, tác phẩm của ngài ngày càng phong phú. Sau đây là những tác phẩm còn để lại:
✽ Dịch Kinh tạng Pali:
1. Trường bộ kinh (2 tập);
2. Trung bộ kinh (3 tập);
3. Tương ưng bộ kinh (5 tập);
4. Tăng chi bộ kinh (5 tập);
5. Tiểu bộ kinh: gồm các tập sau: a. Pháp cú (Kinh Lời vàng); b. Kinh Phật tự thuyết; c. Kinh Phật thuyết như vầy; d. Kinh Tập; e. Trưởng lão Tăng kệ; g. Trưởng lão Ni kệ; h. Bổn sanh (2 tập).
✽ Dịch từ Abhidhamma:
Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhamma Atthasangaha)
✽ Sách viết bằng tiếng Anh:
1. Hsuan T'sang, The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang - nhà chiêm bái và học giả, NS.Trí Hải dịch sang tiếng Việt);
2. Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển - nhà chiêm bái khiêm tốn, NS.Trí Hải dịch sang tiếng Việt);
3. Milindapannha And Ngasenabhikhustra - A comparative study (Cư sĩ Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch sang tiếng Việt);
4. The Chinese Madhyama gama and The Pli Majjhima Nikaya (A comparative study) - Luận án tiến sĩ Phật học (NS.Trí Hải dịch sang tiếng Việt);
5. Some Teachings Of Lord Buddha On Peace, Harmony And Humadignity.
✽ Sách viết bằng tiếng Việt:
1. Phật pháp (đồng tác giả);
2. Đường về xứ Phật (đồng tác giả);
3. Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật;
4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch);
5. Sách dạy Pali;
6. Dàn bài Kinh Trung bộ;
7. Toát yếu Kinh Trường bộ;
8. Toát yếu Kinh Trung bộ;
9. Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng tác giả);
10. Hành thiền;
11. Lịch sử Đức Phật Thích-ca;
12. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi;
13. Chánh pháp và hạnh phúc;
14. Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người (2002);
15. Những mẩu chuyện đạo (2004);
16. Đức Phật - nhà đại giáo dục (2004);
17. Đức Phật của chúng ta (2005);
18. Tâm Từ mở ra, khổ đau khép lại (2006);
19. Những gì Đức Phật đã dạy (2007);
20. Hiểu và hành Chánh pháp (2008);
21. Chiến thắng ác ma (2009);
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn


Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Đức Đệ tam Pháp chủ và giai thoại “Cỗ Tết nhà chùa” (Kỳ 3)
Xiển dương Đạo pháp
Những ngày giáp Tết Ất Tỵ 2025, tôi đến chùa Đại Từ Ân, được Thượng toạ Thích Tiến Đạt - Phó Viện trưởng Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội kể về những năm tháng theo học Hoà thượng Thích Phổ Tuệ, với những hồi ức rất sâu sắc và xúc động.

Bài viết về Chú Đại bi đã thu hút gần 3,2 triệu lượt xem
Xiển dương Đạo pháp
Bài viết về Chú Đại bi 84 câu Tiếng Việt thu hút 3,17 triệu lượt xem, là bài viết đơn lẻ có lượng truy cập nhiều nhất trên trang Phật giáo Việt Nam.
Xem thêm