Phân vân khi nghe mỗi thầy giảng mỗi kiểu…
Có bạn hỏi, khi lên mạng, nghe mỗi thầy giảng mỗi kiểu khiến chúng con phân vân quá. Có phải chỉ cần rõ biết việc làm của mình thôi, không cần phải quan tâm đến bên ngoài làm gì phải không thưa thầy?

Vâng, thông thường các thầy vẫn giảng đang ăn biết mình ăn, đang nói biết mình nói… Nhiều vị cho rằng chỉ cần rõ biết chính mình như vậy là đủ.
Tuy nhiên cần liên hệ rộng thêm, hành động ăn là chủ thể ăn (năng) và cái được ăn là đối tượng bị ăn (sở). Mọi hành vi của căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều nương gá vào trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) để hoạt hoá, chuyển biến.
Như vậy trong một hành động ăn chứa đựng cả năng và sở. Biết mình đang ăn chỉ là một cách nói rút gọn. Thực tế là phải biết mình đang ăn cái gì, đang nói cái gì…
Bởi thông thường cái gây rắc rối, cản trở cho thân tâm mình không phải cái biết mà là cái bị biết.
Vì hành động ăn do cơn đói thúc đẩy, nhưng cái được ăn đôi khi không đáp ứng cho cơn đói ấy. Ví dụ muốn thức ăn vị bùi ngọt, nhưng người ta cho thức ăn vị cay, vị đắng…
Cho nên đối tượng bị ăn bao giờ cũng có thể gây ra rắc rối cho cảm thọ yêu ghét, khen chê, lấy bỏ…
Vì vậy chánh niệm trong mỗi hành vi là sự tương tác không tách rời của cả hai phía chủ thể (ăn) và đối tượng (cái được ăn). Chánh niệm không có nghĩa là không còn phân biệt, mà rõ biết nhưng chấp nhận khác biệt trong an vui, tỉnh thức. Khi chuyển ý thức phân biệt ra thành ý thức bình đẳng thì sẽ không bị tác động bởi não phiền.
Cơ thể vốn có quy chế nạp vào và không chứa đựng. Tuy nhiên, cái gọi là “nạp vào” và “không chứa đựng”chỉ là tạm thời.
Nếu nạp vào mà chứa đựng mãi không đào thải thì nguy. Nếu chỉ có đào thải mà không nạp vào thì cũng nguy. Vì vậy bất kỳ chủ thể nào cũng phải tương tác với đối tượng bằng quy chế tiếp nhận và thải bỏ. Giống như trí tuệ đến thì vô minh lui và ngược lại.
Cho nên một hành động bao giờ cũng có hai phần: phần chủ thể (năng) gây nên hành động, và phần đối tượng (sở) mà hành động ấy ảnh hưởng đến.
Không bao giờ có chuyện mình nói gì và làm gì không cản trở ai, không gây ảnh hưởng tới ai.
Khi thu nạp, nếu chúng ta đưa vào quá nhiều “đối tượng” chỉ chiều chuộng cho thói quen tiếp nhận hay sở thích vốn có lâu nay của mình thì nó sẽ hình thành ra cái gọi là “sở tri chướng”, tức bị chướng ngại, ngăn che khi chỉ thích nghe cái mình muốn nghe, đọc cái mình muốn đọc, ăn cái mình muốn ăn…
Do đó, cái gì trái với chủ thể thì gây ra chướng, phản, chống đối. Chẳng hạn, không phải ai cũng biết ăn sầu riêng, và người biết ăn ngửi thấy thơm, người không biết ăn ngửi thấy khó chịu hay thấy thối.
Như vậy bất kỳ chủ thể hay đối tượng nào cũng phải tương quan thì mới vận hành được trong quy chế nạp vào và đào thải. Người không ăn được sầu riêng mà buộc họ ăn họ sẽ mắc ói. Cho nên xét về thực tế, đối tượng nạp vào luôn mang tính chọn lựa, và chọn lựa (tuỳ góc nhìn) mà nảy sinh khen chê, yêu ghét.
Trong quá trình sống, do môi trường, hiểu biết, kinh nghiệm, quan điểm và xu hướng mỗi người chọn lựa, thâu nạp mà đưa ra các phản ứng, ứng xử không giống nhau. Điều này là tất yếu nhưng không phản ánh chân lý, mà phản ánh thói quen, kinh nghiệm.
Thực tế có nhiều người không ăn được sầu riêng, nhưng vì thế mà bảo sầu riêng là loại trái cây không đáng ăn thì không đúng bản chất.
Cũng như vậy, trong một vườn hoa, mỗi người có sở thích yêu một loài hoa khác nhau.
Sở tri là những thứ ta đã thâu nạp vào từ rất lâu, mặc nhiên tạo thành thói quen, tính cách, cá tính. Sở tri gây ra chướng ngại khi ta một mực giữ thói quen ấy, tính cách ấy và dùng nó để tham chiếu vào sự vật hiện tượng.
Trong một con người, thiện ác, tốt xấu đan chen, nhưng khi yêu chúng ta có xu hướng nói cái tốt và khi ghét chúng ta có xu hướng nói cái xấu. Như vậy đối tượng mà ta chọn lập trường, phương thức tiếp cận nào thì sẽ cho ra hình ảnh theo mong muốn chủ quan của ta.
Việc ta quan tâm hay không quan tâm đến bên ngoài cần được nhìn nhận tuỳ vào thái độ, tình huống, hoàn cảnh ứng xử cụ thể.
Nhìn như vậy để thấy việc khen chê, lấy bỏ tuỳ thuộc vào lựa chọn của mỗi người, nơi mà sự tương tác giữa chủ thể (năng) và đối tượng (sở) không thể tách rời dù ta tỏ thái độ quan tâm hay không quan tâm, yêu hay ghét…
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn


Ý nghĩa của ngày vía đức Bồ tát Quán Thế Âm
Kiến thức
Hằng năm, Phật tử thường làm lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/2, 19/6 và 19/9 theo âm lịch. Đức Quán Thế Âm Bồ tát còn được gọi là Bồ tát Quán Tự Tại xuất hiện khá nhiều trong các kinh điển của Phật giáo Đại thừa như trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa…

Lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập niết bàn
Kiến thức
"Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".

Ai là người biết cúng dường Như Lai đúng nghĩa?
Kiến thức
Đức Phật dạy: "Những người tin ta, thương ta, họ sẽ được phước báu nhưng không đủ điều kiện giải thoát. Nhưng những người thực hành giáo pháp, họ sẽ giác ngộ giải thoát". (Vậy muốn được hưởng phước báu hay muốn giải thoát? Quyền nơi bạn.)

Hành trang của người xuất gia: Ðức hạnh và trí tuệ
Kiến thức
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn và pháp môn nào cũng được diễn đạt qua các bộ kinh. Người tu Đại thừa thường chọn các bộ kinh lớn như Pháp hoa, Hoa nghiêm, Bát-nhã để lập chí tu hành.
Xem thêm