Thiền chế ngự dục lạc
Ham muốn dục lạc bắt nguồn từ tâm vọng tưởng nên khi có mặt ánh sáng thiền định chánh niệm tỉnh giác, tâm vọng tưởng tiêu tan, những ham muốn về thỏa mãn giác quan phải nhường chỗ cho nhu cầu thánh thiện của tâm linh là điều tất yếu.
>Thái tử Tất Đạt Đa sớm nhận ra đời sống dục lạc thế gian là đau khổ
Ai cũng hiểu, để duy trì một cuộc sống, cuộc sống đó phải có niềm vui, nếu dục lạc là niềm vui trần thế để duy trì đời sống trần tục, tôn giáo cũng có niềm vui để duy trì đời sống tôn giáo, hành thiền cũng có niềm vui để duy trì nếp sống tâm linh, nếp sống thiền. Nói đến thiền là nói đến sự tỉnh giác, sự chú tâm và dừng lại, bấy nhiêu đặc tính cũng đã thấy được thiền có thể chế ngự dục lạc, bởi lẽ do tỉnh giác và dừng lại, ham muốn không thể bị trượt dài, sự tỉnh giác và dừng lại khiến người ta thấy “như vậy là vừa đủ” không tìm cầu gì hơn vì đã đủ rồi cầu làm gì.
Niềm vui của thiền là gì? đó là sự thảnh thơi nhẹ nhàng, bằng lòng với những gì đang hiện tại. Khi bạn bước chân đi, với đôi chân tiếp xúc với đất, bạn cảm nhận tất cả những cảm xúc này với một niềm hạnh phúc có sẵn: ta được đất nâng đỡ trên thế giới này, với hơi thở vào và hơi thở ra, bạn ý thức được sự có mặt ngay trong hiện tại, hơi thở là sự duy trì để ta hiện hữu trên cuộc đời này, thật trân quý biết bao, hạnh phúc biết bao ta đã thở. Thiền là vậy, chỉ có vậy thôi bạn cũng đã thấy cuộc sống này hạnh phúc và thiêng liêng. Theo bài kinh Tứ Niệm Xứ thực tập thiền với bốn đề mục thân, thọ, tâm, pháp theo hơi thở.
1. Quán thân trên thân:
Hơi thở vào dài, tôi biết hơi thở vào dài.
Hơi thở ra dài, tôi biết hơi thở ra dài.
Hơi thở vào ngắn, tôi biết hơi thở vào ngắn .
Hơi thở ra ngắn, tôi biết hơi thở ra ngắn.
Cảm giác thân hành, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác thân hành, tôi sẽ thở ra.
An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô.
An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra.
2. Quán thọ trên các cảm thụ :
Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô
Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra.
Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô
Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra.
Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô
Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra.
An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô
An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra.
3. Quán tâm trên tâm:
Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô
Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra.
Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô
Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra.
Với tâm tịnh chỉ, tôi sẽ thở vô
Với tâm tịnh chỉ, tôi sẽ thở ra.
Với tâm giải thoát , tôi sẽ thở vô
Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra.
4. Quán pháp trên các pháp
Quán niệm vô thường, tôi sẽ thở vô
Quán niệm vô thường, tôi sẽ thở ra.
Quán niệm tan rả, tôi sẽ thở vô
Quán niệm tan rả, tôi sẽ thở ra.
Quán niệm hoại diệt, tôi sẽ thở vô
Quán niệm hoại diệt, tôi sẽ thở ra.
Quán niệm từ bỏ, tôi sẽ thở vô
Quán niệm từ bỏ, tôi sẽ thở ra.
Theo dõi hơi thở và những gì xảy ra với thân, với cảm giác về thân, những gì xảy ra về cảm thọ, về tâm hành, về sự tịnh chỉ, về vô thường và hoại diệt, theo dõi những diễn biến về tâm lý, về cảm giác qua hơi thở để thấy mình hạnh phúc trong hiện tại này và đó cũng chính là hạnh phúc của thiền. Từ những hạnh phúc về thiền như vậy, với sự tỉnh giác, ham muốn dục lạc không thể còn cơ hội để khởi lên trong tâm.
Những ham muốn thỏa mãn giác quan nhường chỗ cho sự nhẹ nhàng thanh thản của tâm linh. Bên cạnh đó, khi bạn đạt được sơ thiền một niềm vui khởi lên trong tâm thay thế cho niềm vui của sự ham muốn gọi là “hỷ lạc do ly dục sinh”, đó là lúc hành giả thật sự xóa bỏ lòng dục, xóa bỏ niềm ham muốn giác quan, có được niềm vui nhờ đã lìa ham muốn. Tuy nhiên, niềm vui từ sự ly dục sinh cũng giống như niềm vui của sự chiến thắng khi vừa ra khỏi chiến tranh, tuy đã ra khỏi chiến tranh nhưng niềm vui đó từ chiến tranh mà có, niềm vui do ly dục sinh tức nó vẫn còn liên hệ đến dục nên cần phải tu lên thiền nữa để có niềm vui duy trì sự sống là từ định sinh, xa hẳn dục, và cứ vậy đi lên dục không còn dấu vết nữa.
Đó chính là lợi ích đích thực của thiền khi nói thiền có công năng đoạn trừ dục lạc, bởi lẽ những thiền lạc trên thù thắng, tích cực, vô hại, hơn dục lạc nhiều. Thiền là con đường đáng tin cậy nhất để dẹp trừ dục lạc bởi vì nó phù hợp với khoa học, đã được thực tập bởi Đức Thế Tôn. Ngài đã từng khẳng định tầm quan trọng của thiền trong việc loại bỏ sự chi phối của dục như sau: “Này Mahanama, thuở xưa khi còn là Bồ tát chưa chứng được Bồ đề, chưa thành chánh đẳng giác, ta khéo thấy với như thật chánh kiến: các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều.
Sự nguy hại ở đây càng nhiều hơn. Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến như vậy, nhưng ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy, Ta biết rằng Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này, Mahanama, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh kiến, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại càng nhiều hơn, và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất tiện pháp sinh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.”
Như vậy, dục lạc chỉ biến mất khi thiền giả có thiền lạc, có sự hỷ lạc ngoài dục. Thiền lạc thù thắng, vi tế và thánh thiện nên dục lạc thấp kém phàm phu phải đầu hàng.
Ham muốn dục lạc bắt nguồn từ tâm vọng tưởng nên khi có mặt ánh sáng thiền định chánh niệm tỉnh giác, tâm vọng tưởng tiêu tan, những ham muốn về thỏa mãn giác quan phải nhường chỗ cho nhu cầu thánh thiện của tâm linh là điều tất yếu. Pháp Cú Kinh Phật dạy:
“ Như mưa xâm nhập vào cái nhà vụng lợp
Cũng vậy dục vọng xâm nhập tâm không tu tập”
“ Như mưa không xâm nhập ngôi nhà lá khéo lợp
Cũng vậy dục vọng sẽ không xâm nhập tâm khéo tu tập”
Ở Trung Bộ I Phật dạy rằng: “ Này các Tỳ Kheo, những Sa môn, Bà la môn nào bị trói buộc, bị tham đắm say mê bởi năm dục trưởng dưỡng, không thấy sự nguy hại của chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: các ngươi đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai hoạ, đã bị ác ma sử dụng theo nó muốn. Này các Tỳ Kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai ấy cần được hiểu là bị rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như nó muốn, khi người thợ săn đến, con nai ấy không thể bỏ đi như nó muốn. Này các Tỳ Kheo, những Sa môn hay Bà la môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị say mê bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai hoạ, nó không bị thợ săn sử dụng như nó muốn, khi người thợ săn đến con nai ấy có thể bỏ đi như nó muốn”.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm