Đạo đế là phần quan trọng nhất trong Tứ Diệu Đế. Một khi đã biết rõ cuộc đời là đau khổ, nguồn gốc của đau khổ là gì, và nếu có thiết tha mong cầu giải thoát khỏi cảnh đau khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn
Chương thứ Năm
ĐẠO ĐẾ
(CHÂN LÝ VỀ CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN DIỆT KHỔ)
I. Mở đầu:
Qua những phần đã nói ở trên, ta biết cuộc đời là biển khổ, đã biết rõ những nguyên nhân sâu xa gây ra khổ đau cho mọi chúng sinh. Sau đó sang phần thứ ba, Đức Phật nói rõ về chân lý đưa đến sự diệt trừ những khổ đau đạt đến Niết bàn. Nhưng để diệt trừ những khổ đau để thể nhập Niết bàn thì phải làm thế nào? Đó là nội dung trong phần thứ tư của Tứ Diêu Đế, đó là Đạo đế, là sự thật hay chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đạo đế là phương pháp chân chính và có hiệu quả chắc chắn để đưa chúng sinh đạt đến Niết bàn.
II. Định nghĩa về Đạo đế:
Đạo đế tiếng Phạn là Nirodha Dukkha Gaxminĩ Pratipad. Nirodha là sự tiêu diệt, Dukkha nghĩa là sự chịu đựng những đau khổ, buồn bực, sợ hãi, lo lắng, còn Gaxninĩ Pratipad là phương pháp thực tế. Đạo đế là chân lý hay sự thật về phương pháp thực tế diệt trừ nguyên nhân gây ra đau khổ hay chân lý về con đường diệt khổ.
Đạo còn có ý nghĩa là luân lý, là con đường đúng đắn, đạo còn có nghĩa là thông đạt. Nó chính là phương pháp để cho mọi chúng sinh tu tập để mong cầu vượt qua mọi nỗi khổ trầm luân trong tam giới.
Nội dung của Đao đế gồm nhiều phần, nhưng phần chủ yếu là
Bát Chính Đạo.
III. Nội dung khái quát của Đạo đế:
Đạo đế là phần quan trọng nhất trong Tứ Diệu Đế. Một khi đã biết rõ cuộc đời là đau khổ, nguồn gốc của đau khổ là gì, và nếu có thiết tha mong cầu giải thoát khỏi cảnh đau khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn, mà không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy, thì cũng không đạt được mục đích. Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách rõ ràng chu đáo.
Nội dung khái quát của Đạo đế gồm 37 phẩm trợ đạo, bao gồm:
1. Bốn phép Niệm xứ hay còn gọi là Tứ Niệm Xứ.
2. Bốn phép Chính cần hay còn gọi là Tứ Chính cần
3. Bốn phép Như ý túc hay còn gọi là Tứ Như ý túc
4. Năm Căn hay Ngũ Căn
5. Năm Lực hay Ngũ Lực
6. Bảy phần Bồ đề hay còn gọi là Thất Bồ đề phần
7. Tám phần Chính đạo hay còn gọi là Bát Chính đạo
Trong 7 mục trên Bát Chính đạo là quan trọng nhất, là nét căn bản nhất của Đạo đế và cũng là của Tứ Diệu Đế.
IV. Đạo đế với 37 phẩm trợ đạo:
1.- Tứ Niệm xứ:
Tứ niệm xứ là bốn phép hay bốn chỗ mà người tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Đó là:
- Thân niệm xứ tức Quán Thân bất tịnh
- Tâm niệm xử tức Quán Tâm vô thường
- Pháp niệm xứ tức Quán Pháp vô ngã
- Thọ niệm xứ tức Quán Thọ là khổ
a. Quán Thân bất tịnh:
Quán Thân bất tịnh là tập trung tư tưởng, suy nghĩ để quán sát một cách triệt để, một cách tường tận về sự dơ bẩn (bất tịnh) của thân mình. Nói thân mình là dơ bẩn, điều đó có lẽ khó nghe, nhưng xét kỹ mà nói, điều Phật nói là điều đúng đắn.
Con người ta, ai ai cũng quý cái thân của mình hơn nhất. Cái thân ấy ngay từ tấm bé đã được cha mẹ vỗ về nâng niu “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Lớn lên không những cha mẹ mà chính bản thân ai cũng quý trọng cái thân của mình vô cùng. Người ta chăm sóc thân bằng đủ mọi cách, không những chỉ bằng của ngon vật lạ, quần áo lụa là gấm vóc, nhà cửa khang trang đẹp đẽ, nhà cao cửa rộng. Người ta tìm mọi cách để cho cái thân được sung sướng không kể bất kỳ một phương cách hoặc thủ đoạn nào, kể cả làm những điều xấu xa, bất nhân, phi nghĩa. Cái thân được quý trọng như thế sao lại gọi là dơ bẩn?
Song, thực sự nếu xét kỹ, cái thân người thật không có gì là trong sạch cả. Ngay từ khi chưa ra đời, cái thân chỉ là một bào thai trong bụng mẹ, đã nhơ nhớp rồi vì nó là do tinh cha và huyết mẹ tạo nên mà thành. Sự trưởng thành trong bào thai là trong một môi trường nhơ nhớp suốt thời gian chín tháng mười ngày cho đến khi lọt lòng phải chui theo một con đường bẩn thỉu để ra khỏi bụng mẹ.
Từ khi ra đời đến khi lớn lên, suốt cuộc đời, thân người ta phải ăn uống để tồn tại. Nhưng ai cũng nhận thấy rằng dù ăn của ngon vật lạ, tuy miệng thấy ngon, nhưng sau đó những của ngon vật lạ ấy lại biến thành đồ nhơ bẩn khi bài tiết ra ngoài, hôi thối và bẩn thỉu, không ai chịu nổi và ngay chính bản thân người bài tiết ra cũng không chịu được. Rồi thì hàng ngày, nếu không tắm rửa thì mồ hôi nhơ nhớp làm thân ta hôi hám bẩn thỉu. Sự sống luôn luôn vận động, các cơ quan trong thân thể ta cũng vận động và chứa đựng những cái nhơ nhớp như đồ đại tiểu tiện, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, ráy tai, nước dãi và mùi hôi ở miệng khi mới ngủ dậy.
Tất cả những nhơ bẩn trong người đều thoát ra từ chín lỗ trong thân người ta mà ra gồm hai lỗ mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, một lỗ mồm, một hậu môn và một đường tiểu. Tất cả đều thoát ra những đồ không sạch. Đó là kể khi còn khỏe mạnh. Đối với người ốm thì những đồ nhơ bẩn lại càng đáng sợ, nhất là đối với những người mang bệnh nan y. Khi về già, thân thể yếu ớt không còn đủ sức để chăm sóc bề ngoài thì thân thể lại càng bất tịnh hơn nữa. Đến khi chết, thân tứ đại rã rời, mùi tử khí xông lên từ thi hài, đó là điều không tránh khỏi.
Những điều nói ở trên chứng minh rằng thân ta là bất tịnh. Nhưng mọi chúng sinh chỉ vì chấp ngã, chỉ thấy “cái Ta”, “cái của Ta” mà chỉ biết quý cái thân mình mà không thấy rõ cái thân mình là bất tịnh. Vì thế ta đã làm nô lệ cho thân ta mà gây ra biết bao nhiêu nghiệp xấu. Cũng vì cái thân ta mà tham, mà sân, mà si, cũng vì cái thân mà phạm tội sát sinh, trộm cắp và tà dâm, cũng vì cái thân ta mà nói lời dối trá, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều và nói lời thô bạo.
Do vậy người tu hành cần phải quán sát rõ cái thân là bất tịnh mới tránh được những lỗi lầm, mới tránh được những hành vi bất thiện dẫn đến nghiệp bất thiện.
Vậy quán sát như thế nào? Có một phương pháp quán là tưởng tượng đến một cái xác người chết nằm ở trong rừng không ai biết.
Trước hết là quán thấy cái thây sình trướng phình to, sau đó thấy cái thây bị xanh xám, rồi bị rữa nát, máu thịt rơi rớt, rồi thấy chim thú đến để ăn cái thây đó, rồi sau đó thịt vương vãi, xương đầu mình chân tay rã rời v.v…Phép quán này để đối trị với lòng tham sắc dục là chính, vì lòng tham sắc dục là một bệnh rất nguy hiểm trên bước đường tu hành.
Bởi vì lòng tham sắc dục chỉ là sự ham muốn cái bộ mã bên ngoài, là cái lớp da bọc hồng hào, đẹp đẽ và quyến rũ, còn bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau và bên trong thì tất cả đều là bất tịnh. Cũng có thể quán đến hình ảnh một người già bị bệnh tật nằm trên giường bệnh, bất động lâu ngày, đại tiện và tiểu tiện tại chỗ, đờm dãi, máu me nhơ nhớp khi bệnh trầm trọng, xung quanh là mùi hôi thối do nhiều ngày không được lau rửa, thân thể ngày càng gầy mòn thì lại càng thải ra những đồ dơ bẩn trong thân ra ngoài.
Vì vậy, phật tử một khi đã có tâm nguyện tu hành kiên cố thì nên cố gắng thực hành phép quán thân bất tịnh.
b. Quán tâm vô thường:
Quán tâm vô thường là phép quán để cho cái tâm của ta suy nghĩ và hành động một cách đúng đắn và đúng pháp. Người bình thường không hiểu gì đến giáo lý đạo Phật thì không thể biết đến quy luật vô thường của tạo hóa, họ không thể thấy rằng cả vũ trụ và chúng sinh đều không thường hằng mà luôn luôn biến đổi. Họ cho rằng cái thức hay cái tâm của con người là thường hằng, không thay đổi.Nhưng trên thực tế, cái tâm của con người ta vô thường, không thường hằng (không cố định) một chút nào, nó luôn luôn thay đổi, khi thế này, khi thế khác.
Chỉ cần để ý một chút, tự ta cũng đã thấy rõ cái tâm của ta là vô thường, nó thay đổi theo thời gian trưởng thành từ khi còn nhỏ đến khi lớn, cái tâm cũng đã khác nhau. Khi chưa đi học và khi đã đi học, thêm nhiều kiến thức thì cái tâm của ta cũng khác nhau. Hàng ngày cái tâm luôn thay đổi, đó là khi vui, khi buồn, khi giận dữ, khi yêu thương rồi thì trăm nghìn vọng tưởng đến luôn khuấy động cái tâm ta.
Nếu tâm là thường hằng (không vô thường) thì sẽ không có gì thay đổi. Nếu tâm là thường thì người ngu vẫn cứ ngu, người ác vẫn cứ ác và nếu có học tập hoặc có tu hành cũng không thay đổi được gì. Và nếu cứ bám chặt vào cái tâm là “cái Ta” vĩnh viễn muôn đời, thì sẽ sinh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng phiền não và cái ba độc tham sân si cùng với những mạn nghi ác kiến v.v... luôn luôn nảy sinh ra đều do cái Ngã chấp mà ra.
Cũng vì chấp cái tâm là thường, nên họ cho rằng tính nết của họ không thể thay đổi được, dù họ có tham lam hay nóng giân hay si mê, gian ác. Do đó họ không thể nâng cao tâm trí để theo con đường chân chính được. Nếu như vậy, nếu tâm là thường hằng thì trên đời này không có nhân quả.
Vì vậy Đức Phật khuyên ta nên quán tâm vô thường để đối trị những cái mê lầm nói ở trên, diệt trừ ngã chấp để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
c. Quán pháp vô ngã:
Trong giáo lý nhà Phật, chữ Pháp có nghĩa rất rộng. Pháp biểu thị bất kỳ một sự vật hay hiện tượng nào trong vũ trụ, trong thiên nhiên và trong đời sống xã hội nhân sinh, dù sự vật và hiện tượng đó là hữu hình hay vô hình, cũng đều gọi là Pháp cả.
Đối với người bình thường chưa hiểu biết về Phật pháp, do mê mờ không nhận thức được sự giả tưởng của mọi sự vật, do chưa hiểu được lý Duyên sinh hay Duyên khởi, nên cách nhìn nhận sự vật hay nói khác đi là nhìn các Pháp chưa đúng. Vì thế nên trong bài kinh Nhân Duyên của bộ kinh Trung A Hàm, Đức Phật đã dạy rằng: “Ai hiểu thấu được lý nhân duyên thì người đó sẽ thấy đạo”. Đạo Phật quan niệm rằng tất cả mọi sự vật trên trần thế và trong vũ trụ này đều do các duyên tạo nên mà thành. Từ miếng cơm ta ăn, ngôi nhà ta ở, cái bát để ăn, cái cốc ta dùng để uống nước, cái bút và tờ giấy để ta viết cho đến ngay con người của ta đều do các duyên hợp lại mà thành. Do đó tất cả những cái gì mà ta thấy hiện hữu trên đời, kể cả sơn hà đại địa, núi sông rừng thẳm, đều không có “tự thể”, nghĩa là tự nó không tự có mà đều do các duyên hợp lại mà thành, khi không còn duyên nữa thì nó không tồn tại nữa.
Chính vì mọi sự vật là do duyên khởi, kể cả chính bản thân con người chúng ta, nên nếu không có đủ duyên kết hợp lại thì không còn cái Ta (cái Ngã) nữa. Vì vậy tất cả là Vô ngã. Vô ngã ở đây không chỉ biểu hiện ở con người, ở chúng sinh mà ở tất cả các sự vật và các pháp. Đối với hữu tình thì là nhân vô ngã, đối với sự vật và hiện tượng (tức là đối với các pháp) thì là pháp vô ngã.
Chính vì không nắm được lý thuyết “pháp vô ngã” cho nên con người ta thường bị ảnh hưởng, các phiền não và vọng tưởng lay động theo sự giả dối của sự vật. Cho nên muốn an vui mà không an vui được, muốn tự tại mà chưa lúc nào tự tại được, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi.
Do vậy, quán pháp vô ngã là phép tu giải thoát vô cùng hữu hiệu. Một khi đã chứng được pháp vô ngã rồi thì tất cả đều là vô ngã, cảnh vô ngã, tâm cũng vô ngã, khi đó thì không còn cái gì để mà vướng mắc, mà phiền não nữa và được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
d. Quán thọ thì khổ:
Thọ tức là thụ nhận, là sự lĩnh nhận một điều gì. Quán thọ thì khổ tức là tập trung suy nghĩ rằng có sự lĩnh nhận sẽ là có khổ. Sự thọ nhận hay lĩnh nhận ở đây có nghĩa rất rộng, nó bao hàm tất cả những gì mà con người ta có thể nhận được trong cuộc sống hàng ngày. Sự thọ nhận này chính là nguồn gốc sinh ra đau khổ trên đời. Trong Ngũ uẩn có nói đến Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chính thọ là cái cảm nhận đầu tiên, cái lĩnh nhận nhiều điều vào cho ta, vào tâm của ta, như thọ cái ăn, cái mặc, cái ở; thọ nhận ngũ dục là tham tài, danh, sắc, thực, thùy; thọ nhân lục trần là thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Những cái thọ càng nhiều thì lòng tham càng nhiều, mà tham càng nhiều thì thọ lại càng lắm. Từ cái thọ nhận bình thường cần thiết cho cuộc sống, do lòng tham ta lại thọ nhận những cái không thực sự cần thiết, những cái xa xỉ, hoang phí, và từ cái thọ nhận ít ta lại nảy sinh ra muốn thọ nhận nhiều hơn. Chính cái đó là nguồn gốc gây nên đau khổ cho con người.
Vì sao? Bởi vì ở đời không phải bao giờ cứ muốn là được.
Thọ nhận điều gì mà thuận buồm xuôi gió thì thỏa thích, nhưng thọ nhận mà gặp trở ngại thì càng thêm đau khổ. Từ đó sinh ra giận dữ, thất vọng và đau khổ. Đó là ý nghĩa của phép Quán thọ thì khổ. Tu luyện phép quán này nhằm mục đích đối trị với bệnh tham là một trong ba độc, một thứ bệnh trầm trọng và nguy hiểm nhất trong các bệnh phiền não.
Vì vậy người tu hành muốn diệt trừ lòng tham thì phải thực hiện phép Quán thọ thì khổ.
Tóm lại Tứ Niệm Xứ là bốn phép quán của người tu hành. Bốn phép quán đó cho ta tâm niệm rằng cái thân là bất tịnh, cái tâm là vô thường, mọi pháp là vô ngã và nếu thọ nhiều thì khổ lắm. Phật tử càng nắm vững Tứ Niệm Xứ thì việc thực hiện các pháp môn khác trong Đạo đế càng thuận lợi và càng có kết quả tốt.
2. Tứ chính cần:
Tứ chính cần (hay còn gọi là Chính tinh tấn hay Tứ tinh tấn) là bốn phép tu nhằm giúp cho Phật tử có nỗ lực, siêng năng, tinh tấn thực hành tu tập phù hợp với chính đạo, để giải thoát ra khỏi sự khổ đau, phiền não. Vì vậy sự siêng năng, cần cù và tinh tấn là điều kiện tiên quyết trên con đường đi đến giải thoát và giác ngộ. Con người ta muốn làm việc gì thành công đều phải nỗ lực mới có kết quả. Trong tu hành cũng vậy, muốn được an vui vĩnh viễn thì lại càng phải cố gắng, bền bỉ, nỗ lực tinh tấn mới thành tựu được. Vì vậy Đức Phật đề ra Tứ chính cần để mọi chúng sinh thực hiện. Tứ chính cần thực chất là bốn phép tinh tấn trong tu hành gồm:
- Tinh tấn ngăn ngừa không để những điều ác phát sinh.
- Tinh tấn diệt trừ những điều ác đã phát sinh.
- Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
- Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Đạo Phật xác định điều lành là những điều có khả năng đem lại lợi ích cho mình và cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai, điều đó phù hợp với từ bi, bình đẳng, bác ái và trí tuệ. Còn điều ác là những điều có thể làm tổn hại cho mình và cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai, điều đó đi ngược với lòng từ bi, bình đẳng, bác ái, trí tuệ và chân lý. Điều lành và điều dữ đều phát sinh từ thân, khẩu, ý. Vì vậy cần phải ngăn ngừa những điều ác hay thực hiện những điều lành ngay khi chúng còn ở trong ý thức.
a.Tinh tấn ngăn ngừa điều ác chưa phát sinh.
Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh, tức là cố gắng ngăn không cho những điều ác phát sinh ngay trong ý nghĩ và trong hành động của ta. Ví dụ, người Phật tử muốn làm điều gì trái với tam quy ngũ giới, dù mới ở trong ý nghĩ cũng nên gạt bỏ, như khi khởi tâm muốn đi săn bắn, ăn chơi, rượu chè đàn đúm, tà dâm hoặc trộm cắp của ai vật gì, nói dối, nói độc ác với ai, giận dữ với người khác và làm những điều vô luân, thì nên gạt bỏ ngay từ trong ý nghĩ không để cho việc đó phát sinh ra bằng hành động. Khi đó phải với ý nghĩ rằng mình đã thọ tam quy ngũ giới và đặt mình vào địa vị người sẽ bị ta làm điều dữ để tránh không thực hiện những ý nghĩ đã chót nảy sinh trong ý thức của ta.
Việc tinh tấn ngăn ngừa không để điều ác phát sinh phải thực hiện thường xuyên không ngơi nghỉ trong từng giây, từng phút. Phải thực hiện ngày này sang ngày khác cho đến khi nào tâm được an nhiên, không hề nghĩ đến điều ác nữa. Việc này đòi hỏi sự chuyên tâm, cần cù, siêng năng, dẻo dai, bền bỉ mới có kết quả, mới thành tựu viên mãn được.
b.Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh:
Chúng ta đã biết ở bất cứ một con người nào cũng đều có tội ác. Không kể những tội ác gây ra từ những kiếp trước, ngay trong kiếp này, con người ta cũng dễ gây ra những điều dữ, thậm chí đã phạm nhiều tội ác. Vì vậy trên đường tu hành, phật tử một khi đã nhận biết rõ cái nguy hại của những tội ác thì phải kiên quyết diệt trừ nó.
Điều ác thường phát sinh ngay trong con người ta, bắt đầu từ ý rồi chuyển sang thân và khẩu, tức là từ suy nghĩ phát sinh trong đầu ta, sau đó thực hiện bằng hành động và lời nói. Như vậy tội ác là do thân khẩu ý gây ra và tạo nghiệp ác cho đời này và các đời sau nữa. Vậy diệt trừ những điều ác tức là ngăn chặn không cho thân khẩu ý có điều kiện tạo nghiệp nữa.
Để làm được điều đó, ta phải nỗ lực, siêng năng, tinh tấn thường xuyên quán niệm sát sinh, trộm cắp, tà dâm là tội ác gây tội lỗi cho mình và làm hại người khác. Phải thường xuyên quán niệm việc nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều và nói lời hung ác đều gây ra tội ác như làm mất lòng tin, chia lìa ân nghĩa, tăng trưởng thù oán, gây khổ cho người. Phải thường xuyên quán niệm rằng tham sân si là ba cái độc làm hại chính mình và cho người khác, ba độc đó gây rất nhiều tội lỗi là nguồn gốc sinh ra đau khổ.
Có quán rõ các tội ác như vậy thì trong trường hợp tội ác đã phát sinh rồi thì không những không để cho tội ác phát triển mà còn phải quyết tâm diệt trừ tận gốc rễ,
c.Tinh tấn phát sinh những điều lành chưa phát sinh
Con người ta bao giờ cũng có hai mặt thiện và ác. Ta đã tinh tấn ngăn ngừa điều ác chưa phát sinh và tinh tấn diệt trừ điều ác đã phát sinh thì đối với những điều lành, cũng phải tinh tấn làm nảy nở những điều lành chưa phát sinh và làm phát triển những điều lành đã phát sinh trong ta.
Đối với những điều lành chưa phát sinh, như những ý nghĩ tốt đẹp, những việc làm từ thiện, giúp đỡ người khó khăn, người khuyết tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, bố thí cho người nghèo túng v.v.., ngay đến cả việc nói ra những lời nói hòa nhã, dịu dàng, tất cả những điều đó nếu chớm có ý nghĩ về chúng, thì ta cần phải tinh tấn, cố gắng, hăng hái thực hiện ngay, không nên chần chừ. Thái độ chần chừ, ngại ngần không thực hiện điều lành cũng là một điều không tốt, sẽ không đem lại phúc đức cho bản thân mình, có khi để lại cho ta những ân hận không đáng có và cũng góp phần tạo nên nghiệp xấu.
Vì vậy trong trường hợp chớm nở điều lành chưa phát sinh thì dứt khoát người Phật tử phải tinh tấn thực hiện để cho những điều thiện đó sớm phát sinh với tấm lòng từ bi của người con Phật. Thậm chí khi thực hiện những điều lành như khi giúp đỡ người khác, cần phải nghĩ rằng những người được mình giúp đỡ chính là ân nhân của mình.
d. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh:
Làm những việc thiện, điều lành thì không bao giờ cho là đủ cả. Chỉ trừ khi ta không có điều kiện để thực hiện, còn nói chung làm trọn vẹn điều lành, không những là đã phát triển điều lành trong ta mà còn góp phần ngăn chặn điều ác không cho phát sinh, đồng thời mang lại lợi ích cho chính mình và cho người khác. Ví như thực hành giới không sát sinh hại vật, ta đã ngăn chặn sự giết hại vật, ta không ăn thịt mà ăn chay, đồng thời thực hành việc phóng sinh, chỉ trong một việc đó ta đã đem lại bao nhiêu nghiệp lành và được hưởng phúc đức về sau. Vì vậy việc tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh có ý nghĩa hai mặt là vừa diệt ác vừa tu thiện.
3. Tứ Như ý túc:
Tứ Như ý túc còn gọi là Tứ Thần túc là bốn phép giúp người học Phật thành tựu trên đường tu đạo. Như ý nghĩa là đạt được như ý mình muốn. Túc vừa có nghĩa là chân tức chỗ nương tựa vừa có nghĩa là đầy đủ. Vì vậy Tứ Như ý túc là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình.
Tứ Như ý túc bao gồm bốn phép:
- Dục Như ý túc hay Dục Thần túc
- Tinh tấn Như ý túc
- Nhất tâm Như ý túc hay Tư duy Như ý túc
- Quán Như ý túc hay Niệm Như ý túc
a. Dục Như ý túc:
Dục Như ý túc còn được gọi là Dục Thần túc. Trong Dục Như ý túc chữ Dục chỉ cho sự ước muốn, mong cầu một cách thiết tha, mong muốn đạt được những gì mình chưa có hay mong cầu tìm cách đạt được những sở nguyện của mình cho đến khi như ý, mãn nguyện mới thôi. Dục Như ý túc là phép tu để đạt được những mong cầu được như ý muốn của người tu hành.
Tuy thế cần phải phân biệt rõ rằng tính chất của sự mong muốn trong Dục Như ý túc khác xa với chữ dục là những mong muốn nhằm thỏa mãn những tham vọng đê hèn và tội lỗi cần phải diệt trừ. Cái ái dục trong đời sống thế gian thường là thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những dục vọng xấu sa, đó là mong muốn của lòng tham ba độc. Sự mong muốn trong Dục Như ý túc là sự mong muốn hướng thiện, lành mạnh, thanh cao, mong muốn được giải thoát giác ngộ để ra khỏi luân hồi sinh tử. Trên con đường tu hành, người Phật tử luôn mong cầu được tinh tấn tiếp thu những pháp tu vi diệu để mau đạt thành thánh quả. Vì vậy chữ Dục ở đây biểu thị một hoài bão, một nhiệt tâm mãnh liệt để đưa ta đến thành công, đến thành tựu viên mãn. Trong Dục Như ý túc còn có biểu hiện rằng không thể có một trở lực nào có thể ngăn trở sự mong muốn của ta, rằng với phẩm hạnh này thì ta không bao giờ toại nguyện trừ khi nào đạt đến mục tiêu mình mong muốn.
Phật tử cần phải nắm vững Dục Như ý túc, thực hành thiền định thì mới có thể tăng tiến trên bước đường tu hành của mình.
b. Tinh tấn Như ý túc:
Tinh tấn Như ý túc là sự quyết tâm tiến bộ, giữ gìn tư tưởng tốt, loại bỏ tư tưởng xấu một cách nhất tâm để đạt đến thành tựu viên mãn, như ý của người tu hành. Thực hành điều này không phải chỉ là siêng năng nỗ lực, hăng hái, bồng bột nhất thời, mà là sự tu tập không bao giờ gián đoạn. Đây là điều kiện tốt nhất và thuận lợi nhất cho việc hóa giải tận gốc những hiểu biết sai lầm.
Vậy người Phật tử muốn tu hành để chứng đạo quả, phải thường tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện, tức là phải thực hành nghiêm túc thiền định Tinh tấn Như ý túc mà Đức Phật đã dạy trong Tứ Như ý túc.
c. Nhất tâm Như ý túc:
Nhất tâm Như ý túc còn được gọi là Tư duy Như ý túc. Nhất tâm là chuyên tâm nhất vào một việc nào đó, không bao giờ bị tán loạn, không bị vọng tưởng tác động. Trong khi tu tập hoặc thiền định, người Phật tử cần chuyên tâm vào một việc. Khi đã chú tâm vào một chỗ, thì không việc gì không thành. Tóm lại, thực hành Tư duy Như ý túc chính là tập trung suy nghĩ hay quán chiếu yếu chỉ của các pháp môn tu tập một cách cao độ để thông suốt theo như ý muốn của mình.
d. Quán Như ý túc:
Quán Như ý túc còn được gọi là Niệm Như ý túc hay Thiền định Như ý túc. Đây là phép tu mà trong quá trình tu tập, thiền định, người tu hành phải dùng trí tuệ quán sát tư duy lý pháp mình đang tu, nhờ đó mà định lực phát sinh. Khi định lực đã có thì trí tuệ cũng có và thứ trí tuệ này là thứ trí tuệ thanh tịnh, nhờ nó mà có thể thông hiểu và nhận biết nghĩa của các pháp trong vũ trụ một cách chân thật.
Tóm lại, bốn phép của Tứ Như ý túc giúp cho người tu hành nương tựa vào đó mà phát sinh công đức tu hành hợp theo như ý muốn. Bốn phép tu đó giúp cho người tu hành lần lượt vượt qua những mê lầm do vô minh, đi đến giải thoát. Nói lần lượt vì đầu tiên do tâm tu mong muốn (Dục Như ý túc), nên sự tu tập tiến bộ (Tinh tấn Như ý túc), tiếp đó nhở sự tu tập tinh tấn nên diệt mọi phiền não làm cho tâm được nhất quán (Nhất tâm Như ý túc) và cuối cùng do được nhất tâm nên trí tuệ được phát sinh (Quán Như ý túc), trên cơ sở đó có năng lực phá tan mọi vô minh. Khi vô minh hết thì nghiệp chướng được tiêu trừ, trí tuệ và công đức viên mãn, sẽ thành tựu sự nghiệp tu hành.
4.Ngũ căn:
Ngũ căn (hay Năm căn) là một pháp tu đề cập đến năm cái gốc rễ căn bản làm nguồn gốc để phát triển các thiện pháp. Chữ căn ở đây nghĩa là gốc rễ. Năm gốc rễ đó là : Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn.
a. Tín căn:
Tín căn biểu thị lòng tin vững chắc. Đây là lòng tin của lý trí, của trí tuệ, là kết quả của một tư duy sáng suốt, của sự quán sát thấu đáo. Đây không phải là lòng tin mù quáng, không suy xét, bất chấp lý trí. Đức Phật thường dạy người Phật tử phải biết “Văn, tư, tu” nghĩa là nghe thấy, phải biết tư duy, phải biết suy xét rồi mới hành động. Đức Phật không bao giờ bắt buộc phật tử phải tin một điều gì mà không tìm hiểu kỹ về nó, không được giải thích tường tận về nó. Vì vậy, Đức Thế tôn thường dạy các đệ tử của Ngài : “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta”.
Do đó lòng tin được khởi phát từ trí tuệ, có xét đoán tìm hiểu một cách rõ ràng thì lòng tin đó mới mãnh liệt và vững chắc và chính nó là nền tảng căn bản để phát sinh các hạnh lành. Vậy lòng tin ở đây là tin những gì? Đó chính là tin vào Tam bảo, tin vào Ba ngôi báu.
Đó là Tin Phật vì Phật là đấng toàn năng, đấng Vô thượng, Chính đẳng, Chính giác dẫn dắt chúng sinh đến con đường giải thoát, giác ngộ.
Đó là Tin Pháp vì Pháp của Đức Phật là sự thật, là chân lý, là giáo lý thâm diệu hướng dẫn và chỉ bảo cho chúng sinh đi đến giải thoát và giác ngộ.
Đó là Tin Tăng vì Tăng là người thực hành các giáo lý của Phật để giác ngộ cho mình và cho người, là kẻ thay Phật nêu cao ngọn đuốc chính pháp sáng ngời để soi đường cho chúng sinh tu tập đi đến giải thoát và giác ngộ.
b.Tấn căn:
Tấn căn là sự tinh tấn trên đường Ðạo, trong sự tu hành: bỏ ác làm lành một cách chuyên cần , không mệt mỏi không thối lui. Thiếu tinh tấn thì sự hướng về giác ngộ chỉ là lý tưởng không bao giờ được thực hiện.
Tấn căn là pháp tu đưa đến sự nỗ lực tinh tấn quyết tâm tu hành, không bao giờ lùi bước. Người Phật tử đã có lòng tin (Tín căn) mà không tinh tấn thực hành chính pháp (Tấn căn) thì lòng tin đó cũng không giúp gì được trên bước đường tu hành.
Theo Luận Nhiếp Đại thừa, tinh tấn gồm ba thứ:
* Đó là Bị giáp tinh tấn với ý nghĩa là tinh tấn bằng một quyết tâm như trong cuộc chiến đấu mà người chiến sĩ cần phải mặc áo giáp ra trận, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước bất kỳ một kẻ thù nào.
* Đó là Gia hạnh tinh tấn với ý nghĩa là tinh tấn với một sự nỗ lực, gắng sức không ngừng nghỉ trên bước đường đi đến giải thoát.
* Đó là Vô hỷ túc tinh tấn với ý nghĩa là không vui sướng tự mãn, cho là đủ khi chỉ mới thu được một ít kết quả trên đường tu hành.
c. Niệm căn:
Niệm căn là sự ghi nhớ. Đối với người tu hành, trì giới là một điều rất quan trọng dẫn đến thành tựu trên đường tu đạo. Nó giúp cho việc giữ vững lòng tin vì thế người học Phật cần ghi nhớ những quy luật này.
Vậy niệm căn là ghi nhớ những gì? Có ba điều cần ghi nhớ, ba điều nhớ niệm.
* Đó là Niệm thí tức là nhớ đến pháp tu bố thí. Người Phật tử nên nhớ đem tiền của vật chất bố thí cho người nghèo, hoàn cảnh khó khăn (tài thí); đem chính pháp của Đức Phật giúp người chưa hiểu biết bằng nhiều cách (pháp thí) và đem lòng từ và sức lực cứu giúp người sợ hãi (vô úy thí).
* Đó là Niệm giới nghĩa là thanh tịnh trì giới để diệt trừ mọi nghiệp chướng, phiền não và để tăng trưởng mọi hạnh lành.
* Đó là Niệm thiên tức là luôn nhớ tu các niệm thiền định để tập trung định lực, tăng trưởng trí tuệ, đạt đến chân như.
d. Định căn:
Định căn là tập trung tư tưởng, để tâm yên tịnh, tăng trưởng định lực, chuyên chăm chú nghĩ về chính pháp để đạt đến hiểu biết ý nghĩa chân thật của pháp.
Theo Luận Nhiếp Đại Thừa, định căn chia làm ba bậc
* Đó là An trụ định tức là để tâm trụ vào định cảnh, không cho vọng tưởng làm tán động do đó phiền não được tiêu trừ.
* Đó là Dẫn phát định tức là do đoạn sạch mọi phiền não dẫn đến phát sinh ra Lục thần thông là những công đức tối cao.
* Đó là Thành sở tác sự định tức là do đã có các công đức, thần thông nên có điều kiện cứu độ chúng sinh giải thoát, giác ngộ, chứng được Niết bàn.
e. Tuệ căn:
Tuệ căn là hiểu rõ nguyên lý sinh diệt của vạn vật, là thấy biết sự vật một cách như thật đúng như các đạo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường; nhờ sự hiểu biết đúng đắn này mà khổ đau bị tiêu diệt và an lành thể hiện.
Chữ Tuệ ở đây là thứ trí tuệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí tuệ này không có sự phân biệt vì nếu có phân biệt là có tác dụng của vọng thức, là mê lầm.
Cũng theo Luận Nhiếp Đại thừa, trí tuệ có ba thứ:
* Vô phân biệt gia hạnh tuệ nghĩa là khi quán trí tuệ này thì không còn có sự phân biệt, nhưng còn có gia hạnh nghĩa là còn phải dụng công tu hành để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt.
* Vô phân biệt tuệ nghĩa là trí tuệ này không có sự phân biệt, cũng không cần gia hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên người tu hành có trí tuệ này mà được tự tại.
* Vô phân biệt hậu đắc tuệ nghĩa là trí tuệ có được sau khi đã tự tại, chứng được chân như. Trí tuệ này hoàn toàn sáng suốt, hiểu rõ được chân nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí này mới tác hành vô lượng công đức, cứu độ chúng sinh.
Tóm lại, nói một cách tổng quát, tuệ căn là trí tuệ do thiền định đã diệt hết các vọng tưởng, phân biệt chấp trước mà phát sinh. Có tuệ căn sẽ hiểu biết được sự chân thật của các pháp. Nó là căn nguyên làm phát sanh và phát triển mọi sự việc vĩ đại để giải thoát chúng sanh.
5. Ngũ lực:
Ngũ lực tức là năm năng lực vĩ đại, và là năm thần lực của Ngũ căn. Nói một cách dễ hiểu: Ngũ căn như năm ngón tay, còn ngũ lực như là sức mạnh của năm ngón tay ấy. Nếu không có sức mạnh thì năm ngón tay kia không làm việc được. Ngũ lực bao gồm: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực:
a. Tín lực là thần lực của đức tin, là sức mạnh do lòng tin phát sinh, tức sức mạnh của Tín căn.
b. Tấn lực là sức mạnh có thể san bằng mọi trở lực, là sức mạnh của Tấn căn và do Tấn căn phát sinh.
c. Niệm lực là sức mạnh vĩ đại bền chắc của sự ghi nhớ tức thần lực của Niệm căn
d. Định lực là thần lực của sự tập trung tư tưởng và là sức mạnh của Định căn
e. Tuệ lực là thần lực của trí tuệ và là sức mạnh của Tuệ căn.
Tóm lại, Ngũ lực là sức mạnh tiếp nhận bởi sự tu luyện của Ngũ căn. Người Phật tử dùng Ngũ căn có sức mạnh của Ngũ lực, lấy trí tuệ làm niềm tin (Tín), tinh tấn thực hành chính pháp (Tấn), luôn ghi nhớ chính pháp để tu hành (Niệm), tập trung tư tưởng để diệt trừ vô minh phiền não (Định) và đem trí tuệ vô phân biệt (Tuệ) để chứng được chân như, thì sẽ chắc chắn đi đến đích cuối cùng, đạt đến quả vị vô thượng, chính đẳng, chính giác,tức là thành Phật.
6. Thất bồ đề phần:
Thất Bồ đề phần hay còn gọi là Thất giác chi (Bảy nhánh giác ngộ) là bảy pháp tu tập giúp người tu hành tiến đến giải thoát, giác ngộ.
Thất Bồ đề phần là một pháp tu quan trọng cũng như các pháp môn Ngũ căn, Ngũ lực. Do chúng sinh mỗi người có một căn cơ khác nhau, điều kiện khác nhau, nên Đức Phật đã tạo ra nhiều pháp môn khác nhau để ai hợp với pháp môn nào thì theo pháp môn đó. Tất nhiên với mỗi pháp môn khác nhau đó có những phần chi tiết có thể trùng nhau, giống nhau.
Thất Bồ đề phần hay Thất giác chi đó bao gồm:
a. Trạch pháp hay Trạch giác chi là pháp môn lựa chọn. Đó là một phương pháp tu hành sử dụng trí tuệ để lựa chọn chính pháp để tu, tà pháp để tránh. Trong bước đường tu hành, nếu không có trí tuệ phân biệt chính tà, lành dữ thì dễ dàng vấp phải sự lầm lạc. Trong Ngũ căn, ta đã biết lòng tin của người Phật tử phải dựa trên lý trí và tránh điều mê tín. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí tuệ suy xét, giải trạch các pháp, rồi hãy tin theo, thực hành theo". Người Phật tử không thể tin một cách không suy nghĩ và không lựa chọn mà phải tỉnh táo phân biệt điều lành, điều dữ, điều chính, điều tà, phải dùng trí tuệ mà suy xét mới có thể tin được. Có như thế mới thẳng tiến trên đường tu hành đến giải thoát và giác ngộ được.
b.Niệm pháp hay Niệm giác chi là pháp tu có công năng tiêu diệt tà niệm và vọng niệm. Tà niệm và vọng niệm là những trở ngại lớn lao đối với việc tu tập trên tiến trình đạt đến giải thoát. Loại bỏ tà niệm và vọng niệm thì chính niệm mới được phát khởi để cho chúng ta thấu rõ chân tướng vô thường, khổ và vô ngã của vạn vật. Vì vậy người tu hành cần phải để tâm niệm ghi nhớ chính pháp, không xao lãng lung tung.
c. Tinh tấn giác chi là pháp tu đòi hỏi người tu hành phải nỗ lực, kiên trì để vượt qua mọi thử thách. Vì thế tinh tấn là điều kiện đồng thời là phương tiện rất cần thiết để người tu hành thực hiện lý tưởng giải thoát, giác ngộ. Giáo lý của đạo Phật đòi hỏi con người phải có rất nhiều cố gắng, hy sinh và kiên nhẫn, không khiếp sợ, không thối chuyển, không tự mãn, tự cao để chống lại mọi phiền não khổ đau. Nếu thiếu sự nỗ lực tinh tấn thì không thể nào dẹp tan được phiền não vọng tưởng và dĩ nhiên khổ đau sẽ gắn liền với chúng ta đời đời kiếp kiếp.
d. Hoan hỷ giác chi cũng là một pháp tu giúp cho người tu hành trên con đường tu tập. Một khi việc tu tập càng tinh tấn nỗ lực thì kết quả càng mỹ mãn, vì vậy hoan hỷ là một yếu tố giúp cho con người phấn khởi trên đường tu đạo khó khăn để đi đến giải thoát giác ngộ. Khi đi sâu vào thiền định thì Tam thiền có công năng đối trị với sân hận, bất mãn khiến cho tâm người tu hành hoan hỷ và thụ nhận được sự mát mẻ và vui thích trong khi thiền định.
e. Khinh an giác chi là pháp tu giúp cho hành giả lúc nào cũng nhẹ nhàng và an tịnh. Khinh an giác chi có nhiệm vụ hóa giải ngọn lửa phiền não để tâm không còn dao động. Người có tâm khinh an sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng thư thái như khách đi đường xa trút bỏ được gánh nặng, nhờ thế họ có thể nhẹ nhàng, thong thả đi tiếp tới đích mà không gặp chướng ngại nào.
f. Định giác chi là pháp tu giúp cho tâm ta an định để thấy rõ mọi việc. Con người ta, nếu tâm bị giao động thì vọng tưởng tha hồ phát sinh, tức là tâm không thể tập trung và an trú trên một đối tượng nào. Do đó khi tâm đã định sẽ giúp hành giả thấy rõ được bản chất chân thật của đối tượng trong thế gian. Có người dùng định để phát triển thần thông, nhà thôi miên dùng định để chữa bệnh hay sai khiến kẻ khác làm theo ý họ. Còn Phật giáo chỉ dùng định để phát triển trí tuệ vì trí tuệ là điều kiện tối hậu để đạt đến lý tưởng giải thoát giác ngộ.
g. Xả giác chi là pháp tu làm cho tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Xả giác chi làm cho người ta có gặp nghịch cảnh cũng không bất bình và có gặp thuận cảnh cũng không tham ái luyến tiếc. Được như vậy, họ thản nhiên trước lời tán dương hay phỉ báng. Họ cũng thản nhiên, tự tại, trước mọi lợi lộc hay mất mát, trước cám dỗ của địa vị hay danh vọng và dù vui hay khổ thì họ vẫn an nhiên, tự tại.
7. Bát chính đạo hay Bát thánh đạo:
Bát chính đạo hay Bát thánh đạo là tám con đường chân chính, ngay thẳng giúp chúng sinh tu học đi đến đời sống tốt đẹp và cũng là tám con đường mầu nhiệm dẫn dắt chúng sinh đến địa vị Thánh. Bát chính đạo là pháp tu chính, cốt lõi mà bất cứ hành giả nào muốn đạt đến giác ngộ giải thoát cũng phải đi qua.
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Bát Chính đạo là pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chính đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chính đạo là một.
Chính vì vai trò quan trọng và thâm diệu của Bát Chính đạo, nên trong tài liệu này, tác giả trình bày Bát Chính đạo thành một mục lớn sau đây:
V. Bát Chính đạo, pháp tu căn bản:
Sở dĩ Bát Chính đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn này rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi nơi, mọi chốn. Đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương, ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chính đạo, và đều áp dụng pháp môn này trong quá trình tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
Trong một lần thuyết pháp trước các đệ tử, Đức Thế Tôn sau khi kể một chuyện về việc các thần dân một nước xin nhà vua và quần thần trùng tu một con đường mà họ vừa phát hiện được, vì con đường đó đưa họ đến những thành phố cổ xưa với những công viên, vườn cây, hồ ao, đền đài tráng lệ. Nhà vua đã quyết định trùng tu lại con đường cổ xưa và thành phố cổ xưa đó, bây giờ đã trở nên phồn thịnh, phát triển mạnh lớn, cư dân đông đúc và giầu có, dân chúng sống an lạc và thái bình. Sau khi kể xong câu chuyện về con đường đó, Đức Thế Tôn nói: “Cũng thế ấy, này các tỳ kheo, ta đã tìm được con đường cũ xa xưa đó, một con đường mà các bậc Chánh đẳng Chánh giác đều đi qua vào các thời kỳ trước.
Con đường cũ xa xưa đó là gì? Đó là con đường tám chính: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định. Này A Nan, con đường tám chính này đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe pháp, là sự chiến thắng vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục tham sân si.”
Như vậy ta thấy rằng chư Phật trong quá khứ, muốn thành Phật cũng phải đi qua Bát Chính đạo. Và ngay cả Đức Phật trong khi tu hành, Ngài cũng phải đi qua Bát Chính đạo.
Chính vì vậy mà đức Phật đã nói trong kinh Tương Ưng rằng: “Nếu giáo pháp nào mà không hàm chứa Bát Chính đạo thì giáo pháp đó không thể tạo ra được một vị sa môn đạt đến quả Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và Vô sinh” (tức Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán). Và Đức Phật nhấn mạnh: “Giáo pháp của Ta có hàm chứa Bát Chính đạo nên giáo pháp đó tạo ra được sự giác ngộ, giải thoát”
1. Nội dung của Bát Chính đạo:
Bát chính đạo là tám con đường chính gồm có: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định:
a. Chính kiến được đức Phật đặt lên hàng đầu, là một yếu tố quan trọng bậc nhất. Chính kiến ngược với tà kiến, tà kiến làm cho con người ta đảo điên, si mê, buộc chặt con người vào sinh tử luân hồi. Còn Chính kiến là thấy và hiểu biết đúng đắn mọi vấn đề trong thế giới và xã hội con người, đúng với sự thật khách quan. Người có Chính kiến khi thấy như thế nào thì nhận biết đúng như thế ấy. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có Chính kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật và tin theo giáo lý của Đức Phật, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, thấy rõ việc nào là thiện, điều nào là ác, hiểu rõ luật nhân quả. Người có Chính kiến nhận biết đúng đắn về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngã, là do duyên sinh, duyên khởi, nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết mọi khổ đau, tức là nhận thức đầy đủ về Tứ Diệu Đế. Vì vậy, ta thấy rõ rằng bước khởi đầu của tu hành là phải có Chính kiến. Người phật tử tu hành mà có Chính kiến theo chính pháp thì con đường đưa đến giải thoát giác ngộ sẽ nhanh chóng thành tựu.
b. Chính tư duy là suy nghĩ đúng đắn, chân chính. Người có Chính tư duy thường suy nghĩ về đạo lý cao cả, nhiệm màu, về Giới, Định, Tuệ để tu giải thoát, về sự nhận biết vô minh là nguyên nhân sinh ra đau khổ . Chính tư duy cho con người ta suy nghĩ một cách thực tế, không ảo tưởng mơ hồ.
Người tu hành có Chính tư duy không để đầu óc của mình nghĩ ngợi đến những cái xấu, đến những vấn đề bất thiện như tham lam, tức tối, giận hờn, ghen tỵ, đố kỵ, âm mưu đen tối...nghĩa là không nghĩ đến những điều đem cái hại đến cho người khác, hay đem lại sự phiền não cho người khác. Đức Phật đã từng dạy: “…Đó là tư duy về vô sinh, tư duy về sự vô hại và tư duy về sự xuất ly…”. Chính tư duy giúp hành giả và chúng sinh hướng về cái tâm cao thượng, tâm thiện mỹ, về từ bi hỷ xả, nhẫn nhục, trầm tĩnh, về lòng thương yêu giúp đỡ chúng sinh trên trần thế.
c. Chính ngữ là lời nói đúng đắn, ngôn ngữ chân chính, nghĩa là không nói những lời nói gây cho người nghe để họ đau khổ, buồn tủi; không nói những lời nói gây chia rẽ, hung bạo, căm thù. Chính ngữ là không bao giờ nói sai, không nói thiên vị, không nói xuyên tạc, không nói nịnh hót. Chính ngữ là nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và có ích, những lời nói nhẹ nhàng, dịu dàng, làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu và thanh thản, mát lòng, nghĩa là lời nói của một tấm lòng nhân ái.
Dân gian ta thường có câu:
Lời nói không mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Để làm vừa lòng nhau, người nói phải lựa lời mà nói. Nhưng “lựa lời mà nói…”, đấy mới chỉ là đạo xử thế của thế gian, chứ không phải là Chính ngữ trong Tứ Diệu Đế theo
con đường đức Phật dạy. Con đường Chính ngữ của Đức Phật không phải là lựa lời mà nói, mà phải nói lời chân thật, đúng đắn nhưng phải đúng lúc và đúng chỗ.
Chính ngữ là nói những lời nói đem lại lợi ích cho người khác, không nói những lời nói hại người.
Trong kinh Tạp A Hàm, Đức Phật đã từng khuyên đệ tử cần phải suy nghĩ trước khi nói, Người nói: “Nếu ta không thích bị người lừa dối, người khác cũng như thế. Vậy tại sao lại lừa dối người khác? Nếu ta không thích người khác chia lìa thân hữu, người khác cũng như thế. Vậy tại sao lại chia lìa thân hữu người khác? Nếu ta không thích người khác nói lời thô ác, người khác cũng như thế. Vậy tại sao đối với người khác, lại mạ nhục họ? Nếu ta không thích người nói lời thêu dệt, người khác cũng như thế. Vậy tại sao đối với người, ta lại nói lời thêu dệt? Cho nên đối với người khác, ta không nên nói lời lừa dối, ly gián, thêu dệt, ác khẩu.”
Tóm lại, Chính ngữ là nói những lời nói không đem lại nghiệp ác cho mình.
d. Chính nghiệp là hành động hoặc hành vi chân chính, đúng đắn, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho chúng sinh, nghĩa là không làm việc giết hại, trộm cướp, tà dâm. Chính nghiệp là thực hành những việc làm lương thiện, là thực hiện sự thương yêu, cứu người, giúp đỡ người có khó khăn, là không ham muốn thú vui bất thiện. Chính nghiệp giúp con người ta có một nghề nghiệp đúng đắn, và luôn tôn trọng nghề nghiệp của mình, không hại chúng sinh hữu tình, không gây tội lỗi sai trái. Người theo Chính nghiệp hay dùng trí tuệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi thiền, niệm Phật, trì tụng kinh hành để giữ gìn thân, khẩu, ý cho được thanh tịnh. Chính nghiệp là thực hiện những việc làm không gây ra các nghiệp ác về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
e. Chính mạng là thực hiện đời sống chân chính, đúng đắn, nghĩa là phải có phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, nghề nghiệp lương thiện, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo, lừa đảo, dối trá hại người. Chính mạng còn có nghĩa là sống đúng chính pháp, không mê tín dị đoan, không sống trong ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng, phù phiếm, không chạy theo dục vọng. Chính mạng là sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi cho mình, lợi cho người, xứng với lao động mình làm ra, không sống dựa vào người khác. Chính mạng là thực hiện một đời sống không bệnh tật, ít muốn, biết đủ và chân thành. Đó là bốn yếu tố cấu thành cần thiết của một con người thực hành đúng đắn Chính mạng.
f. Chính tinh tấn là thực hiện sự nỗ lực đúng đắn, cố gắng một cách lành mạnh, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện. Chính tinh tấn không phải là muốn làm hơn người khác. Chính tinh tấn là cố gắng, nỗ lực thực hiện bốn điều sau đây:
* Nỗ lực ngăn chặn không cho phát sinh những điều ác,
* Nỗ lực ngăn chặn làm cho những điều ác đã phát sinh phải tiêu diệt,
* Nỗ lực làm cho những điều thiện chưa phát sinh thì nhanh chóng phát sinh,
* Nỗ lực làm cho những điều thiện đã phát sinh thì phát triển cao hơn nữa (tham khảo phần Tứ Chính cần đã nói ở trên).
Nói tóm lại, người theo đúng Chính tinh tấn là người quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy trí tuệ làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm nơi tìm đến, kiên quyết công phu đạt thành đạo quả để độ cho mình, sau độ cho người.
g. Chính niệm là nhớ nghĩ một cách chân chính, đúng đắn, nhớ nghĩ đến những đạo lý chân chính, đến điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình và cho người. Chính niệm nghĩa là không nhớ nghĩ những điều bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang, tâm ý phải an trú vào thiện pháp, không quên thiện pháp. Chính niệm là sống theo quán xét thân, tâm, pháp, thọ để điều phục hành động của mình cho đúng đắn. Chính niệm có hai mặt:
* Chính ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân gồm ơn cha mẹ, ơn tổ quốc, ơn chúng sinh và ơn Tam Bảo để lo báo đền.
* Chính quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
h. Chính định là tập trung tư tưởng một cách đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác. Chính định là phải ly dục, ly tham ái mới đưa đến chính định được. Người theo đúng Chính định, thường tập trung tư tưởng để quán sát những vấn đề chính sau đây:
* Quán thân bất tịnh (như đã nói trong phần nói về Tứ Niệm xứ)
* Quán từ bi là quán tưởng để mở rộng lòng thương yêu và cứu độ chúng sinh.
* Quán nhân duyên là quán tưởng đến tất cả vạn vật hữu hình và vô hình đều là giả hợp, do nhờ duyên mà có, chứ không thực có, không trường tồn.
* Quán giới phân biệt nghĩa là quán tưởng sự giả hợp của mười tám giới gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức, để thấy không thực có “ngã”, “pháp”, từ đó diệt trừ chấp ngã pháp
* Quán hơi thở nghĩa là quán tưởng bằng cách chú tâm đếm hơi thở ra, hơi thở vào để đối trị với vọng tưởng và sự tán loạn của tâm thức.
2.Tính chất của Bát Chính đạo:
Tám nội dung của Bát Chính đạo có liên quan mật thiết với nhau. Người
tu hành không thể phát triển đi riêng rẽ từng nội dung riêng biệt, mà phải thấu triệt cả tám nội dung, tức tám con đường của Bát Chính đạo mới đạt được thành tựu.
Về phương diện thực hành tu tập, Bát Chính đạo có thể phân thành ba phần theo ba phương pháp tu:
a. Phần thứ nhất bao gồm Chính ngữ, Chính nghiệp và Chính mạng. Phần này đề cập đến việc nói những lời nói chân chính và đúng đắn, đến việc làm bằng những hành vi chân chính, lương thiện và đến thực hành những nghề nghiệp chân chính. Phần này biểu thị cho phương pháp tu TRÌ GIỚI.
b. Phần thứ hai bao gồm Chính tinh tấn, Chính Niệm và Chính định. Phần này đề cập đến công phu tu hành và thanh lọc tâm bằng pháp môn hành thiền. Phần này biểu thị cho phương pháp tu ĐỊNH.
c. Phần thứ ba bao gồm Chính kiến và Chính tư duy. Phần này đề cập đến sự thấy biết và suy nghĩ một cách đúng đắn và chân chính. Phần này biểu thị cho phương pháp tu TUỆ.
Như vậy, khi trình bày các nội dung của Bát Chính đạo thì Chính kiến và Chính tư duy đứng đầu. Khi xét theo như một pháp tu tập thì ba phần của Bát Chính đạo được kể theo thứ tự Giới, Định, Tuệ thì Chính kiến và Chính tư duy lại được kể sau cùng. Điều đó nói lên rất rõ rằng ở bước ban đầu muốn hiểu đúng con đường đạo thì phải có trí tuệ, phải có sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn tức là Chính kiến và Chính tư duy phải đứng đầu, bởi vì muốn thực hành giáo pháp mà không có Chính kiến thì sẽ bị lầm đường lạc lối. Và khi vào thực hành pháp tu, người tu hành phải trải qua Giới, Định, Tuệ, thì giai đoạn Tuệ ở cuối cùng tức là khi đó Chính kiến và Chính tư duy đã đạt đến mức cao, có hiệu năng đưa người tu hành vượt thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi và được giải thoát. Đó là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật cũng như trong Bát Chính đạo đã trình bày.
3.Lợi ích của Bát Chính đạo:
Trong kinh Đại
Niết Bàn, Đức Thế tôn đã dạy: “Trong bất luận giáo đoàn nào, nếu không có Bát Chính đạo thì cũng không có hạng nhất đẳng sa môn (tức Tu Đà Hoàn), cũng không có nhị đẳng sa môn (Tư Đà Hàm), tam đẳng sa môn (A Na Hàm) hay tứ đẳng sa môn (A La Hán). Trong giáo đoàn nào có Bát Chính đạo thì cũng có hạng nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng và tứ đẳng sa môn. Bát Chính đạo là con đường duy nhất”.
Bát Chính đạo là pháp môn tu tập có nhiều lợi ích thiết thực, rất được thông dụng đối với người học Phật. Tất cả các hành giả đạt được từ bậc thánh Thanh Văn trở lên đều phải tu qua Bát Chính đạo. Bát Chính đạo không những mang lại lợi ích cho người tu hành đi đến thành tựu cuối cùng là giải thoát, giác ngộ, đạt đến Niết bàn, mà còn giúp cho mọi con người bình thường sống trong xã hội đạt được lợi ích trong cuộc sống, bởi vì trong Bát Chính đạo, tất cả là những bài học về cuộc sống làm người.
Những lợi ích mà Bát Chính đạo đem lại có thể gồm:
* Cải thiện cuộc sống con người: Nếu ai tu theo Bát Chính đạo một cách nghiêm cẩn và đúng đắn thì có thể sửa đổi được tất cả mọi hành vi, ý nghĩ và lời nói bất chính, vô đạo lý. Cuộc sống sẽ hướng theo chân thiện mỹ.
* Cải thiện hoàn cảnh sống trong xã hội: Nếu trong xã hội mọi người đều tu theo Bát Chính đạo thì xã hội sẽ được an lành, không còn tệ nạn, không còn chiến tranh giết hại lẫn nhau.
* Chứng quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác: Những người học Phật chuyên tu theo Bát Chính đạo thì không những được lợi lạc trong cuộc sống hiện tại mà con tạo cho mình một tương lai tươi sáng, vì họ đã gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ để để ngày sau gặt hái được quả vô thượng Chính đẳng chính giác, đạt đến Niết bàn.
VI.Vai trò của Đạo đế trong Tứ Diệu Đế:
Ta đã biết Đạo đế là nội dung trong phần thứ tư của Tứ Diêu Đế. Đạo đế là sự thật, là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đạo đế là phương pháp chân chính và có hiệu quả chắc chắn để đưa chúng sinh đạt đến Niết bàn. Do đó Đạo đế có một vai trò rất quan trong trong Tứ Diệu Đế. Trong ba phần đầu của Tứ Diệu Đế là Khổ đế, Tập đế và Diệt đế, Đức Phật đã dẫn dắt Phật tử nhận biết nỗi khổ ở đời, nguyên nhân của khổ đau và sự chấm dứt khổ đau. Còn phần thứ tư là Đạo đế mới là phần quan trọng nhất, cốt lõi nhất của Tứ Diệu Đế để hướng dẫn chúng sinh và nhà tu hành vững bước trên đường tu đạo đạt tới giải thoát, giác ngộ, Niết bàn.
Đạo đế bao gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tứ Niệm xứ, Tứ Chính cần, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chính đạo. Riêng phần Đạo đế được trình bày kỹ, đầy đủ và với số lượng thời gian và nội dung phong phú, cũng đủ nói lên sự quan trọng mà Đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết bàn này.
Cũng cần thấy rằng nội dung trong Đạo đế có quá nhiều pháp môn. Sở dĩ thế vì Đức Phật thấy rõ căn cơ của mỗi chúng sinh không đều nhau, nên phải có nhiều pháp môn để mỗi người tùy theo căn cơ của mình mà chọn lựa pháp môn thích hợp mà tu hành. Tất nhiên một người có thể tu một pháp môn hay nhiều pháp môn khác nhau nếu có đủ khả năng, sức khỏe và trí tuệ.
Trong lịch sử đạo Phật, ta thấy các
đức Phật mười phương đều nhờ các pháp môn này đầu tiên mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả các thánh giả trong ba thừa đều nương tựa vào đây để tu hành đến khi thành tựu đạo quả. Vì vậy, tất cả Phật tử chúng ta, những người đang ôm ấp một tâm nguyện tu hành thành Phật nhằm cứu độ mình và cứu độ chúng sinh, chắc chắn không ngần ngại học tập những giáo lý căn bản và vĩ đại của Đức Phật đã nói trong Tứ Diệu Đế, bài học đầu tiên mà Đức Thế Tôn giảng trước các đệ tử đầu tiên của Người ở Vườn Lộc Uyển.
Phạm Đình Nhân
TIN, BÀI LIÊN QUAN: