Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 07/12/2023, 13:59 PM

Vua Trần Nhân Tông: Bật mí về cuộc đời và sự nghiệp tu hành có một không hai trong lịch sử

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Trần Nhân Tông là vị vua hiếm có, có thể nói là duy nhất, không chỉ có công lớn trong việc chiến thắng giặc ngoại xâm hùng mạnh nhất thời bấy giờ; mà còn sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm - một dòng thiền riêng của Việt Nam tồn tại tới ngày nay.

Vậy, vị vua tài ba, đức độ ấy là người như thế nào, cuộc đời Ngài có gì ấn tượng? Mời quý bạn cùng đón đọc.

Trần Nhân Tông là ai?

Đức vua Trần Nhân Tông tên húy là Khâm, sinh ngày 11/11/Mậu Ngọ (tức 07/12/1258), là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều. Sinh thời, Ngài có tướng mạo rất phi phàm. Ngài là vị vua thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt.

Theo lịch sử ghi lại, vì khi sinh ra, thân Ngài có màu sắc hoàng kim, nước da vàng sáng rất đẹp, nên Ngài được gọi là Phật kim. Ngài rất thông minh, hiếu học, đọc hết sách vở, suốt thông nội điển (kinh Phật) và ngoại điển (sách đời).

Vua Trần Nhân Tông quê ở đâu?Quê ông ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định). 

Tôn tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông - người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được đặt trên đỉnh Yên Tử (nguồn ảnh: Internet)

Tôn tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông - người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được đặt trên đỉnh Yên Tử (nguồn ảnh: Internet)

Cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông 

1. Cuộc đời của vua Trần Nhân Tông

Vào năm 1274, khi 16 tuổi, Ngài được phong làm Hoàng Thái tử. Mặc dù trước đó, Ngài đã nhiều lần từ chối ngôi vị, xin nhường lại cho em trai nhưng vua cha không đồng ý. Sau đó, vua cha cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu cho Ngài (tức là Khâm Từ Hoàng hậu sau này). 

Tuy sống trong cảnh vui hòa, hạnh phúc nhưng tâm Ngài vẫn luôn ưa thích sự tu hành. Dù là một vị vua, ngồi trên ngôi Cửu Trùng nhưng Ngài không ăn những món từ việc giết mạng chúng sinh.

Một hôm, vào nửa đêm, Ngài trèo thành trốn đi với ý định vào núi Yên Tử tu hành. Khi đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng. Vì người đã thấm mệt, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Ở đây, vị Sư trụ trì thấy tướng mạo Ngài phi phàm liền làm cơm thiết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm và bất đắc dĩ, Ngài phải quay về cung thành.

Ngày 22/10/Mậu Dần (năm 1278), Ngài lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Trần Nhân Tông. Tuy ở địa vị cao sang, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh và thường đến chùa Tư Phước tu tập. Đây là ngôi chùa được xây dựng trong đại nội, dành cho tất cả vương tôn, công tử. 

Một hôm, khi nghỉ trưa, Ngài mơ thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có Đức Phật vàng. Bên cạnh có người đứng chỉ và nói: “Biết Đức Phật này không? Đó là Đức Biến Chiếu Tôn!”. Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen giấc mơ là việc kỳ lạ và đặc biệt.

Bởi là một người thông minh, hiếu học, đặc biệt là Ngài ham học thiền; nên khi nhàn rỗi, Ngài mời các thiền khách để bàn giải về Tâm Tông, tham học thiền với Tuệ Trung thượng sĩ. Đây là một vị thiền sư, cũng là vị quan lớn trong triều.

Khi giặc Nguyên sang xâm chiếm Đại Việt, Đức vua Trần Nhân Tông gác việc tu học Phật Pháp để lo giữ gìn xã tắc. Với tài mưu lược sáng suốt, đưa đạo vào đời, Ngài đã áp dụng Pháp lục hòa để gắn kết nhân dân thành một khối đại đoàn kết. Nhờ đó, Ngài tạo nên sức mạnh toàn dân, giúp hai lần lãnh đạo quân dân, đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông (1285, 1287 - 1288), bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự chủ của dân tộc. 

Đây là thành công rất lớn khi Đức vua Trần Nhân Tông đưa đạo Phật vào đời sống, tích cực truyền bá tinh thần đoàn kết giữa vua tôi, xã tắc, gia đình,... nhằm giúp cho đất nước Đại Việt ngày càng vững mạnh, thịnh trị.

Sau 15 năm trị vì đất nước, đến năm Quý Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên ngôi Thái Thượng hoàng, để chuẩn bị con đường xuất gia tu hành.

Tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299), Ngài xuất gia và về tu hành ở núi Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà (khổ hạnh), lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và sáng lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng, vì vậy học chúng đến tu học rất đông.

Tiếp tục tâm nguyện độ sinh, Ngài đến chùa Phổ Minh ở Phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định) lập giảng đường để giảng dạy nhiều năm. Về sau, Ngài vân du đến trại Bố Chính lập am Tri Kiến (nay thuộc tỉnh Quảng Bình) và ở lại đó. Tại đây, Ngài cũng đã hoằng dương Phật Pháp, làm lợi lạc cho chúng sinh.

Năm 1308, sau nhiều năm xuất gia tu tập, Ngài viên tịch tại đỉnh Ngọa Vân, núi Yên Tử. Với những đóng góp to lớn cho đạo pháp và dân tộc, Ngài đã được người đời kính trọng, sau được suy tôn là Phật Hoàng Trần Nhân Tông (hay còn gọi là vua Phật Việt Nam).

2. Sự nghiệp tu hành của vua Trần Nhân Tông

Rời bỏ ngai vàng, Ngài lên Yên Tử khoác áo cà sa thuyết pháp độ sinh, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm - niềm tự hào của Phật giáo Việt Nam. Cùng với tư tưởng “Hòa quang đồng trần” - Phật giáo nhập thế, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã khéo léo gắn kết đạo và đời, lấy đạo xây đời và qua đời dựng đạo, hết lòng vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của người dân.

Ngài là Tổ Sư của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, hay còn còn gọi là Sơ Tổ - người sáng lập ban đầu. Khi tu hành, Ngài đã khéo léo dung hợp ba dòng thiền là Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Tỳ-ni-đa-lưu-chi trong dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có từ trước thời nhà Trần.

Bên cạnh đó, Ngài còn kết hợp cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo; cho nên gọi là Tam giáo đồng nguyên. Điều này thể hiện tinh thần hòa hợp của Phật hoàng Trần Nhân Tông khi đã khéo léo dung hợp tất cả tôn giáo về một dòng thiền.

Điều đặc biệt, việc một nhà vua ngồi trên ngai vàng; sau đó xuất gia tu hành hạnh đầu đà không phải là chuyện thường. Ngài ý thức được việc tu tập mang lại lợi ích vô cùng; và vật chất nơi thế gian không phải là nguồn gốc giúp đem lại hạnh phúc cho mọi người.

Cả cuộc đời dành tâm huyết cho đạo Pháp và dân tộc, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã có những công lao lớn trong bảo vệ đất nước và xây dựng thiền phái Trúc Lâm, truyền bá đạo Phật, làm lợi ích nhân sinh.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Bậc Thầy mô phạm

Chân dung từ bi 14:50 25/03/2024

Giản dị nhưng sâu lắng, nghiêm nghị mà từ bi, nhẹ nhàng nhưng vững chãi, uy hùng mà bao dung. Mỗi lời nói của khẩu đều là Pháp ngữ, mỗi động tĩnh của thân đều là Phật hạnh. Tùy duyên nhậm vận, trọn đời thuyết pháp cứu độ quần sinh, hòa quang đồng trần, thuận theo nhân tâm mà hành Phật sự.

“Làm đến Hòa thượng mà tôi nhận thấy còn thua hồi nhỏ”

Chân dung từ bi 10:15 11/03/2024

Có lúc giữa chúng đông, tôi thường nói, bây giờ làm đến Hoà thượng mà tôi nhận thấy còn thua hồi nhỏ. Ai nấy đều ngạc nhiên!

Cuộc đời và đạo nghiệp của Đệ Tam Tổ Huyền Quang

Chân dung từ bi 16:00 02/03/2024

Thiền sư Huyền Quang玄光 (1254-1334), thế danh là Lý Đạo Tái[1] 李道載, quê ở hương Vạn Tải, lộ Bắc Giang Hạ (khoảng những năm niên hiệu Hồng Đức 1470-1497 đời Lê Thánh Tông đổi tên thành xã Vạn Tư, huyện Gia Định; nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).

Thiền sư Vạn Hạnh - Hình tượng ngàn năm

Chân dung từ bi 11:20 06/02/2024

Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Xem thêm