Bố thí: hạnh tu thể hiện sự biết ân và báo ân

Bố thí (dàna), cúng dường (dakkhinà), trợ duyên hay tạo điều kiện giúp cho người khác vơi khổ hay đi đến thoát khổ là một hạnh tu căn bản được nói đến trong đạo Phật. Người Phật tử được khuyên thực hành hạnh bố thí cúng dường, vì đó là lẽ sống sáng suốt mang lại an lạc cho mình và lợi lạc cho người khác.

Đó là hạnh tu thể hiện sự biết ân và báo ân của người con Phật đối với cuộc đời, là việc làm nói rõ tâm thái từ bi và trí tuệ của những người học tu theo hạnh của Phật. Từ bi, vì đó là nghĩa cử của tâm thương quý người khác. Trí tuệ, bởi đó là việc làm thể hiện sự sáng suốt của người Phật tử trong suy tư và nhận thức về hiện hữu. Đó là hạnh tu có liên quan mật thiết đến đời sống của con người, tức là hiện tượng cho và nhận diễn ra thường xuyên trong đời sống của mỗi người. Nói cách khác, đó là việc hân hoan đáng làm đối với những người hiểu rõ nguyên lý cộng sinh giữa cuộc đời.

Có ba hình thái bố thí được nói đến trong đạo Phật cho thấy quan niệm sáng suốt của người con Phật trong tư duy và nhận thức về tính chất tương quan của cuộc sống. Đó là tài thí (àmisadàna), pháp thí (dhammadàna) và vô úy thí (abhayadàna).

Bố thí: hạnh tu thể hiện sự biết ân và báo ân 1
Ảnh minh hoạ.

Tài thí chủ yếu là giúp đỡ cho người khác về phương diện vật chất hay phương tiện mưu sinh, như hỗ trợ về nơi ăn chốn ở; tạo điều kiện cho người khác có cơ hội được học tập nhằm năng cao kiến thức, nâng cao tay nghề chuyên môn; hay tạo công ăn việc làm cho người khác, giúp cho họ có được cuộc sống ổn định.

Pháp thí cơ bản là giúp cho người khác có được sự hiểu biết đúng đắn hay nhận thức sáng suốt, biết phân biệt về thiện ác, đúng sai; nói cho người khác biết đâu là thiện nên theo, đâu là ác cần phải từ bỏ; khuyến khích người khác phát huy nếp sống giới đức, tâm đức và tuệ đức; hay gợi cho người khác hiểu rõ về sự thật khổ đau, về nguyên nhân khổ đau, về nguyên lý khổ diệt và về con đường đưa đến chấm dứt khổ đau.

Vô úy thí nghĩa là giúp cho người khác có được sự an tâm và tin tưởng vào lẽ sống chân chánh hiền thiện, không rơi vào nghi ngờ, hoang mang, lo âu sợ hãi; nêu gương cho người khác về phương diện đạo đức, cụ thể là thể hiện nếp sống có giới đức (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu), tâm đức và tuệ đức, khiến cho người khác hoàn toàn yên tâm và tin tưởng về lẽ sống chân chánh hiền thiện mà mình theo đuổi, giúp cho họ thoát khỏi mọi tâm lý nghi ngờ, lo âu, sợ hãi trong cuộc sống.

Người con Phật được khuyên học tập và thực hành ba loại bố thí trên, cũng có nghĩa là thể hiện sự tri ân và báo ân đối với cuộc đời, vì đó là những gì mà bản thân mỗi người đã nhận được trong quá trình hiện hữu và cần hiến tặng lại cho người khác, cho cuộc đời.

Tùy thuộc vào điều kiện và năng lực của mỗi người mà ba hình thái bố thí trên được thực hiện ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, mọi việc làm mang tính chia sẻ đều nói lên sự hiểu biết và đều mang ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người và cuộc đời. Có ai lớn lên trong đời này mà không cần đến sự ban bố và giúp đỡ của người khác về cái ăn cái mặc (tài thí), về tri thức và đạo lý (pháp thí), về niềm tin yêu để sống (vô úy thí)?

Xét về nguyên lý tương hệ sinh tồn thì quá trình hiện hữu của con người trên cuộc đời không gì khác là một quá trình nhận và cho. Con người nhận suốt đời và cho suốt đời. Nhận suốt đời, vì con người không tự hiện hữu, không tồn tại độc lập, phải nhờ đến sự trợ duyên của nhiều thứ khác ở bên ngoài mới tồn tại. Cho suốt đời, vì nhất cử nhất động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến người khác, đến thế giới chung quanh.

Theo quan niệm của đạo Phật thì mọi thứ trên cuộc đời đều hiện hữu và tồn tại nhờ vào nhân duyên, nghĩa là nhờ sự hỗ trợ của những thứ khác. Con người cũng vậy, sở dĩ tồn tại được là nhờ sự gia ân của nhiều người khác và nhiều thứ khác ở bên ngoài. Đến lượt mình, đời sống của mỗi người - những ý nghĩ, lời nói và việc làm - tác động trở lại đến người khác và đến thế giới chung quanh. Chính vì thế mà đạo Phật khuyên mọi người cần phải biết nhớ ân và báo ân cuộc đời bằng cách phát tâm bố thí cúng dường, nghĩa là phải thể hiện nếp sống chơn chánh hiền thiện, nỗ lực làm các việc lành, làm các việc công đức để tri ân cuộc đời.

Đọc và suy ngẫm đoạn kinh văn sau đây nói về tương hệ giữa Đức Phật và nhũ mẫu Mahàpajàpati Gotamì để thấy rằng đời sống của mỗi người không gì khác là một quá trình cho và nhận:

“Bạch Thế Tôn, Mahàpajàpati Gotamì đã giúp ích nhiều cho Thế Tôn, là thúc mẫu, là dưỡng mẫu, đã nuôi dưỡng Thế Tôn, đã cho Thế Tôn bú sữa, vì rằng sau khi sanh, thân mẫu của Thế Tôn mệnh chung, chính bà đã cho Thế Tôn bú sữa. Bạch Thế Tôn, và Thế Tôn cũng giúp ích nhiều cho Mahàpajàpati Gotamì. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế Tôn, Mahàpajàpati Gotamì đã quy y Phật, quy Pháp, quy y Tăng. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế Tôn, Mahàpajàpati Gotamì từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say các loại rượu đem lại. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế Tôn, Mahàpajàpati Gotamì có đầy đủ lòng tịnh tín bất động đối với Đức Phật, đầy đủ lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, đầy đủ lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng, đầy đủ các giới luật làm bậc Thánh hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, chính nhờ Thế Tôn, Mahàpajàpati Gotamì không còn nghi ngờ đối với Khổ, không còn nghi ngờ đối với Khổ tập, không còn nghi ngờ đối với Khổ diệt, không còn nghi ngờ đối với Con đường đưa đến Khổ diệt. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn cũng đã giúp ích nhiều cho Mahàpajàpati Gotamì” (1).

Bà nhũ mẫu Mahàpajàpati Gotamì đã chăm lo cho Đức Phật bằng cả tấm lòng thương yêu của bà mẹ; bà đã hết lòng chăm sóc nuôi nấng Đức Phật từ lúc Ngài còn tấm bé cho đến lúc lớn khôn. Đức Phật đã tiếp nhận tình thương và sự chăm sóc của bà Mahàpajàpati Gotamì nhờ đó Ngài mới trưởng thành. Đến lúc thành đạo xong thì Đức Phật quay trở về báo ân cho bà Mahàpajàpati Gotamì; Ngài thuyết giảng đạo lý giải thoát cho bà, khuyến khích bà quy y Tam bảo, tuân giữ nếp sống giới đức trong sạch, giúp cho bà thiết lập lòng tin vững chắc đối với Phật-Pháp-Tăng, tạo duyên lành cho bà thực hành hạnh bố thí cúng dường, khai thị cho bà thấy rõ và quyết chắc về Bốn chân lý: khổ, khổ tập, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt hiện hữu trên cuộc đời (đồng nghĩa là đắc quả Dự lưu). Như vậy, bà Mahàpajàpati Gotamì đã giúp đỡ rất nhiều cho Đức Phật và Đức Phật cũng đã giúp ích rất lớn cho nhũ mẫu Mahàpajàpati Gotamì.

Tương hệ giữa cuộc đời Đức Phật và nhũ mẫu Mahàpajàpati Gotamì giúp cho chúng ta hiểu thêm tầm quan trọng của bố thí và vì sao bố thí được xem là hạnh tu thể hiện sự biết ân và báo ân của người con Phật. Bà Mahàpajàpati Gotamì đã bố thí công lao dưỡng dục cho Đức Phật bằng tất cả tấm lòng thương yêu của người mẹ. Đáp lại, Đức Phật đã ban bố lẽ sống giải thoát cho bà Mahàpajàpati Gotamì bằng trí tuệ và tâm từ bi của một bậc Giác ngộ. Hai sự bố thí không giống nhau nhưng có chung một tấm lòng: mong cho người khác được hạnh phúc an lạc, thoát khỏi phiền não khổ đau.

Hiểu như trên thì bố thí chính là một đạo lý của sự sống mà mọi người cần quan tâm nỗ lực thực hiện vì lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác. Đó là hành vi bảo tồn sự sống, khiến cho sự sống được bảo vệ, được che chở, trở thành an ổn, thoát khỏi mọi nguy cơ đưa đến tàn hại. Nói khác đi, bố thí là trách nhiệm cao quý mà mỗi người cần nỗ lực thực hiện trong cuộc đời nhằm góp phần làm cho đời sống trở nên tốt đẹp. Lý Duyên sinh (Paticcasamuppàda) hay quan niệm tương hệ nhân quả của đạo Phật cho thấy một ý nghĩ trong sáng hay không trong sáng sinh khởi trong một người có tính cách quyết định đến sự trong sạch hay ô nhiễm của môi trường sống trên thế giới.

Chưa nói đến việc bố thí rộng rãi cho nhiều người khác, hãy quan tâm làm tốt và thể hiện tốt việc bố thí đối với những người thân yêu và gần gũi với mình. Đó là yêu cầu cơ bản của bố thí, được hiểu như là trách nhiệm đạo đức mà mỗi người cần làm cho nhau trong các mối quan hệ. Đức Phật dạy mọi người thực hành hạnh bố thí theo cách cụ thể như vầy:

“Này Gia chủ tử, có năm cách người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Đông: ‘Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi sẽ bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời’. Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chặn con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Này Gia chủ tử, có năm cách đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: Đứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyện; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang cho vợ. Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này Gia chủ, như vậy là người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

Này Gia chủ tử, như vậy là bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Này Gia chủ tử, có năm cách một vị chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia sẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

Này Gia chủ tử, như vậy là các hàng nô bộc được vị chủ nhân đối xử như phương Dưới theo năm cách, và các hạng nô bộc có lòng thương tưởng đối với chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.

Này Gia chủ tử, như vậy là các Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách và các Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi” (2).

Như vậy, cứ theo lời Phật thì một người mà làm tốt trách nhiệm đạo đức của mình trong các mối quan hệ với người khác tức là đang thực hành hạnh bố thí. Vì điều đó đem lại hân hoan an lạc cho người khác, khiến cho sự sống được che chở, được tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp, trở thành an ổn, thoát khỏi các sợ hãi:

- Con cái mà sống có hiếu thảo với cha mẹ tức là đem lại hân hoan an lạc cho cha mẹ. Cha mẹ mà khéo chăm lo giáo dưỡng con cái tức là đem lại hân hoan lợi lạc cho con cái.

- Học trò mà biết vâng lời thầy và chăm chỉ học tập tức là đem lại hân hoan an lạc cho người thầy. Thầy mà hết lòng dạy dỗ và trao truyền kinh nghiệm cho học trò tức là đem lại hân hoan lợi lạc cho học trò.

- Vợ mà nhất mực trung thành và thương yêu chồng tức là đem lại hân hoan an lạc cho người chồng. Chồng mà hết lòng trung thành và yêu quý vợ tức là đem lại hân hoan an lạc cho người vợ.

-Bạn bè mà biết quý mến và đối xử tốt với nhau tức là đem lại hân hoan an lạc cho bạn bè.

- Chủ nhân mà có lòng thương quý và đối xử tốt với người làm công, kẻ giúp việc tức là đem lại hân hoan an lạc cho kẻ ăn người ở. Kẻ làm công, người giúp việc mà trung thành và biết cách làm lợi cho chủ tức là đem lại hân hoan an lạc cho người chủ.

- Người thiện tín mà có lòng tôn kính cúng dường cho các Sa-môn hay Bà-la-môn tức là đem lại hân hoan an lạc cho các Sa-môn hay Bà-la-môn. Các Sa-môn hay Bà-la- môn mà tận tâm giáo giới và khuyến thiện cho kẻ thiện tín tức là đem lại hân hoan lợi lạc cho người thiện tín.

Nhìn chung, bố thí là hạnh tu hết sức căn bản được khuyến khích trong đạo Phật, là hành vi hiểu biết đưa đến lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác, lợi lạc cho cuộc đời. Đó là hạnh tu nói rõ tâm thương người của người con Phật, là việc làm thể hiện lòng tri ân và báo ân của những người hiểu rõ tính tương quan nhân duyên của sự sống. Đó là hành vi mở tâm lắng nghe dòng đời trôi chảy thế nào để dự phần khơi nguồn cho dòng chảy ấy được trong sáng, êm ả, mang lại sức sống an vui cho nhiều người. Cuộc sống tồn tại hỗ tương nên bố thí chính là trách nhiệm đạo đức của mỗi người và mọi người.

Tùy thuộc vào tâm tâm lượng hiểu biết mà khả năng chia sẻ (bố thí) được thể hiện ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, mọi việc làm mang tính chia sẻ dù khiêm tốn đến đâu cũng nói lên tâm thái hiểu biết và đều cần thiết cho đời sống của con người và lợi lạc cho cuộc đời.

Người con Phật được khuyên học tập đầy đủ các hình thái bố thí và thực hành chúng trong đời sống hàng ngày, tùy theo nhân duyên hay điều kiện cụ thể của mỗi người.

Con người và xã hội ngày nay vẫn đang cần đến nhiều tấm lòng bố thí và chia sẻ, không chỉ về cái ăn cái mặc (tài thí), mà còn là tri thức, đạo lý (pháp thí) và nhất là niềm tin (vô úy thí).

Người con Phật có nhiều thứ đáng quý có thể chia sẻ cho cuộc đời. Phật tử không có nhiều tiền tài vật chất nhưng có trí tuệ, không có địa vị chức quyền nhưng có lòng tin, không có nhiều tài năng nhưng có giới đức.

Đức Phật xác chứng rằng một người mà biết quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu) tức là đã thực hành “đại bố thí” (mahàdàna) và thi ân lớn cho cuộc đời, vì người đó “đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem cho không tổn hại cho vô lượng chúng sinh” (3).

Hoặc trong lời khuyên dành cho thanh niên Singalaka (4), Đức Phật dạy mọi người biết thể hiện trách nhiệm đạo đức đối với nhau trong các mối quan hệ (cha mẹ và con cái, thầy và trò, chồng và vợ, bạn bè và bạn bè, chủ nhân và người giúp việc, tu sĩ và cư sĩ) tức là đã bố thí cho nhau, trợ duyên cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau đi đến tiến bộ, cùng nhau xây dựng và thực nghiệm đời sống hạnh phúc an lạc trên cõi đời.

Chú thích:

1 Kinh Phân biệt Cúng đường, Trung Bộ.

2 Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt, Trường Bộ.

3 Kinh Nguồn nước công đức, Tăng Chi Bộ.

4 Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt, Trường Bộ.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

“Thay đổi nhận thức, thay đổi cuộc đời”

Phật giáo thường thức 16:00 18/11/2025

“Đau khổ không phải là kết thúc, mà là tiếng chuông báo hiệu rằng bạn cần nhìn đời từ một góc khác.”

Súc sanh có vãng sanh được không?

Phật giáo thường thức 13:20 18/11/2025

Hỏi: Súc sanh có được vãng sanh không? Hộ niệm cho súc sanh có được không?

Phật dạy lục hòa là gốc của Tăng

Phật giáo thường thức 13:08 18/11/2025

Chữ Tăng tiếng Phạn là Sanga, dịch là hòa hợp chúng, tứ chúng hòa hợp lại là Tăng. Như vậy, sống hòa hợp với nhau gọi là Tăng. Tụi con nhìn lại các nơi có được sự hòa hợp không?

Mỗi phiền não mỗi cách trị

Phật giáo thường thức 10:30 18/11/2025

Phiền não là vô số. Mà vô số thì không thể trị bằng một thứ duy nhất...

Xem thêm