Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Chủ nhật, 03/01/2021, 10:24 AM

Tư duy về Niết Bàn (I)

Từ lâu rồi nhiều thuyết giải thích hai từ ngữ Niết Bàn là một cõi định vị có không gian: cõi niết bàn, cũng có thuyết cho rằng Niết Bàn là một trạng thái, một cảm nhận, một vô tướng.

Nếu có cõi Tịnh Độ cõi Thiên thì có cõi Niết Bàn, nếu có trạng thái Tịnh Độ vô tướng Tịnh Độ thì có trạng thái Niết Bàn.

Từ lâu rồi nhiều thuyết giải thích hai từ ngữ Niết Bàn là một cõi định vị có không gian: cõi niết bàn, cũng có thuyết cho rằng Niết Bàn là một trạng thái, một cảm nhận, một vô tướng. Nếu có cõi Tịnh Độ cõi Thiên thì có cõi Niết Bàn, nếu có trạng thái Tịnh Độ vô tướng Tịnh Độ thì có trạng thái Niết Bàn. Chúng tôi xin phép kết hợp thuyết bùng nổ big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để tư duy về Niết Bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu?

Tôn giả Xá Lợi Phất nhập Niết bàn

Thành tựu Niết Bàn của Cư sĩ Nguyên giác: Đây là thuyết cho Niết Bàn là một trạng thái bao gồm có:

- Không không gian, thời gian: Niết Bàn không ở hướng nào hết, dù là hướng đông, nam, tây, bắc, hướng trên, hướng dưới, hay hướng ngang; Niết Bàn không là quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải được sanh lên, không phải không được sanh lên, không phải sẽ được làm cho sanh lên; Niết Bàn là không có vật đối chiếu, không thể bằng ví dụ, hoặc bằng lý lẽ, hoặc bằng nguyên nhân, hoặc bằng suy luận để chỉ ra hình thể, hay vị trí, hay tuổi thọ, hay kích thước của Niết Bàn; Niết Bàn là thuần lạc, không bị xen lẫn khổ…

- Không số lượng: Người trí thấy trực tiếp, kinh nghiệm tức khắc Niết Bàn. Nghĩa là, không ngăn cách bởi không gian tới cõi Phật tây Phương hay đông Phương, không ngăn cách bởi thời gian quá khứ vị lai. Nghĩa là, bất kỳ những gì có hạn lượng đều không phải Niết Bàn.

Niết Bàn là Tâm, tức tâm tức Phật, là bản tâm

Niết Bàn là Tâm, tức tâm tức Phật, là bản tâm

- Niết Bàn không phải là Thức: Tức là, Niết Bàn là nơi thức không an trú vào đâu. Trích Kinh SN 12.64, bản dịch Thầy Minh Châu: "Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai." (Trong Trường Bộ, nơi Kinh DN 11, Đức Phật nói rằng đó chính là một thức vô biên, không thể thấy. Như thế, chữ “thức” có vẻ như có hai nghĩa, “một thức diệt tận” và “một thức biến thông hết thảy xứ”…

- Niết Bàn là Tâm, tức tâm tức Phật, là bản tâm: Như thế, thuần túy là hoạt động của thân và tâm. Như thế, lời dạy Đức Phật (qua lời ngài Xá Lợi Phất) rất minh bạch: Niết Bàn không thể có ở đâu ngoài các hoạt động của thân và tâm, và khi thân này lìa đời sẽ là một bước (chữ “bước” - nghe cũng không ổn) để từ Niết Bàn hữu dư sang Niết Bàn vô dư, nếu chúng ta hoàn tất con đường Giới-Định-Huệ của Bát Chánh Đạo. Đức Phật nói rằng Niết Bàn không phải là chuyện trên mây, hay chuyện bên kia núi. Niết Bàn là cái phi thời gian (không bị hạn lượng trong thời gian), là cái thiết thực, là cái thấy được trực tiếp ngay ở khoảnh khắc kinh nghiệm được. Kinh AN 3.55 ghi lời Đức Phật, qua bản dịch Thầy Minh Châu, cho thấy Niết Bàn hiển lộ ngay khi tham sân si biến mất: 

- Niết Bàn là Tánh Không: Sự tương tục của chấp ngã và chấp pháp tạm thời bị cắt đứt. Chính đây là trạng thái vô ngã, vô pháp. Chính đây là trạng thái Tánh Không, mà ở nơi tâm thức thì gọi là tâm Không. Chính đây là cánh cửa mở vào không gian giải thoát. Chính ngay khi nhìn vào khoảng niệm trước đã diệt và niệm sau chưa sanh, là sự tỉnh thức thuần túy, không hề có một nỗ lực cố gắng nào, vì tất cả nỗ lực cố gắng đều làm mất cái nhìn khoảnh khắc đó. Khi bạn nhìn như thế, tất cả tham sân si khi khởi lên sẽ tự nhiên biến mất vào bầu trời chiếu diệu của bản tâm. Đó là nơi của tịch lặng, nơi không lời để nói, nơi hoàn toàn rỗng rang của Tánh Không và tỉnh thức. Giữa hai niệm luôn luôn là tâm ban đầu. Bạn sẽ thấy nơi đây cũng là một thức tịch diệt, cũng là một thức không an trú vào nơi đâu; ngay nơi đây, lìa cả Hữu và Vô, không phải là Vô Tâm cũng không là Hữu Tâm. Và là nơi vắng bặt tham sân si. Chỉ trong cái nhìn này mới thấy thể tánh tham sân si cũng là tánh không, cũng là Niết Bàn. Nơi cái nhìn này mới hiểu được Kinh A Di Đà Sớ Sao: vượt khỏi ba kỳ trong một niệm. Đây chính là một pháp rất mực tiện dụng của Thiền Tông vậy.

Thành tựu Niết Bàn

Đức Phật nói rằng Niết Bàn không phải là chuyện trên mây, hay chuyện bên kia núi. Niết Bàn là cái phi thời gian (không bị hạn lượng trong thời gian), là cái thiết thực, là cái thấy được trực tiếp ngay ở khoảnh khắc kinh nghiệm được.

Đức Phật nói rằng Niết Bàn không phải là chuyện trên mây, hay chuyện bên kia núi. Niết Bàn là cái phi thời gian (không bị hạn lượng trong thời gian), là cái thiết thực, là cái thấy được trực tiếp ngay ở khoảnh khắc kinh nghiệm được.

Thuyết Big Bang của Stephen Hawking:

Thuyết Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng và được cộng đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nó đưa ra cách giải thích hoàn thiện về nhiều loại hiện tượng quan sát thấy trong vũ trụ, bao gồm sự có mặt của những nguyên tố nhẹ, bức xạ nền vi sóng vũ trụ, cấu trúc vĩ mô của vũ trụ, và định luật Hubble đối với siêu tân tinh loại Iạ. Những ý tưởng chính trong Vụ Nổ Lớn - sự giãn nở của vũ trụ, trạng thái cực nóng lúc sơ khai, sự hình thành của heli, và sự hình thành các thiên hà - được suy luận ra từ những quan sát này và những quan sát khác độc lập với mọi mô hình vũ trụ học. Các nhà vật lý biết rằng khoảng cách giữa các đám thiên hà đang tăng lên, và họ lập luận rằng mọi thứ đã phải ở gần nhau hơn khi trở về quá khứ. Ý tưởng này đã được xem xét một cách chi tiết khi quay ngược trở lại thời gian đến thời điểm vật chất có mật độ và nhiệt độ cực cao, và những máy gia tốc hạt lớn đã được xây dựng nhằm thực hiện các thí nghiệm gần giống với thời điểm sơ khai, mang lại kết quả thúc đẩy phát triển cho mô hình. Mặt khác, những máy gia tốc chỉ có mức năng lượng bắn phá hạt giới hạn để có thể nghiên cứu miền năng lượng cao của các hạt cơ bản. Có rất ít manh mối về thời điểm sớm nhất sau sự giãn nở. Do đó, lý thuyết Vụ Nổ Lớn không thể và không cung cấp bất kỳ cách giải thích hay miêu tả nào về điểm khởi nguyên này; thay vào đó nó miêu tả và giải thích sự tiến hóa chung của vũ trụ sau thời điểm lạm phát.

Công bố nghiên cứu cuối cùng của nhà vật lý Stephen Hawking

Công trình khoa học cuối cùng của nhà vật lý quá cố Stephen Hawking vừa được các đồng nghiệp của ông công bố. Mục đích của nghiên cứu là để biết được những gì sẽ xảy ra với thông tin khi các vật thể rơi vào hố đen (black Hole) vũ trụ. Nhà vật lý xuất sắc Stephen Hawking qua đời hồi tháng 3 năm nay. Công trình này nhằm giải quyết một vấn đề mà các nhà vật lý lý thuyết gọi là “nghịch lý thông tin. Nó được hoàn thành chỉ vào vài ngày trước khi Hawking qua đời hồi tháng 3. Hiện tại, toàn bộ nghiên cứu đang được viết lại bởi các đồng nghiệp của ông ở 2 trường  Cambridge và  Harvard, đồng thời đăng tải online.

Giáo sư vật lý lý thuyết Malcolm Perry của đại học Cambridge, đồng tác giả của nghiên cứu có tên là “Black Hole Entropy and Soft Hair” cho biết, “nghịch lý thông tin” là mối quan tâm lớn nhất của Hawking trong suốt 40 năm qua. Nguồn gốc của vấn đề có thể truy lại thời kỳ của Albert Einstein. Năm 1915, Einstein công bố thuyết tương đối tổng quát, trong đó mô tả cách mà lực hấp dẫn sinh ra từ các hiệu ứng uốn cong không-thời gian của vật chất, và vì thế mà các hành tinh quay xung quanh Mặt Trời.

Nhưng lý thuyết của Einstein cũng đưa ra những dự đoán quan trọng về hố đen, đặc biệt là một hố đen có thể được xác định hoàn toàn chỉ bằng 3 đặc tính: khối lượng, điện tích và sự xoay tròn của nó.

Gần 60 năm sau, Hawking đã bổ sung thêm vào ‘bức tranh’. Ông lập luận rằng hố đen cũng có nhiệt độ. Và bởi vì các vật thể nóng bị mất nhiệt vào vũ trụ, nên số phận cuối cùng của một hố đen là bốc hơi mất. Nhưng điều này lại làm nảy sinh một vấn đề. Các quy luật của thế giới lượng tử đòi hỏi thông tin không bao giờ bị mất đi.

Vì thế, chuyện gì xảy ra với toàn bộ thông tin chứa trong một vật thể - ví dụ như bản chất các nguyên tử của Mặt Trăng – khi nó rơi vào một hố đen? “Việc khó khăn là nếu bạn ném thứ gì đó vào một hố đen thì nó trông như biến mất” – Perry nói, “Làm thế nào mà các thông tin trong vật thể đó phục hồi được nếu hố đen biến mất?” Trong công trình cuối cùng, Stephen Hawking và các đồng nghiệp đã cho thấy cách mà một số thông tin ít nhất là có thể được khôi phục. Ném một vật thể vào hố đen và nhiệt độ của hố đen phải thay đổi. Vì thế, một đặc tính được gọi là “entropy” – thước đo sự rối loạn bên trong của một vật thể - cũng vậy. Nó sẽ trở nên nóng hơn. Các nhà vật lý, trong đó có Sasha Haco ở Cambridge và Andrew Strominger ở Harvard, cho thấy rằng entropy của một hố đen có thể được ghi lại bởi các photon bao quanh đường chân trời của hố đen – điểm mà ánh sáng không thể thoát hỏi lực hấp dẫn cường độ cao. Họ gọi ánh sáng lấp lánh này của photon là “soft hair” (lông mềm). “Việc mà nghiên cứu này làm là cho thấy rằng ‘lông mềm’ có thể giải thích cho entropy” – Perry nói. “Nó nói với bạn rằng ‘lông mềm’ thực sự đang làm đúng việc của mình”. Mặc dù vậy, đó chưa phải là sự kết thúc của nghịch lý thông tin. “Chúng tôi không biết rằng entropy giải thích cho mọi thứ mà bạn có thể ném vào một hố đen, vì thế đó thực sự chỉ là một bước trên cả con đường” – Perry chia sẻ. “Chúng tôi nghĩ rằng đó là một bước đi khá tốt, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm”.

Vài ngày trước khi Hawking qua đời, Perry đang ở Harvard nghiên cứu công trình cùng với Strominger. Ông không biết Hawking ốm nặng đến mức nào. Ông đã gọi điện để cập nhật tiến độ cho Hawking. Đó có lẽ là cuộc trao đổi khoa học cuối cùng mà nhà vật lý quá cố đã làm. “Stephen rất khó khăn để giao tiếp và tôi đã phải đeo một chiếc loa để giải thích về việc chúng tôi đã tiến hành đến đâu. Khi tôi giải thích, ông ấy chỉ cười. Tôi nói rằng chúng tôi đã gặt hái được một số thứ. Ông ấy đã biết về kết quả cuối cùng này”. Một trong số những ẩn số mà Perry và các đồng nghiệp phải khám phá bây giờ là cách mà thông tin liên quan đến entropy được lưu trữ trên ‘lông mềm’ và cách mà những thông tin đó ra khỏi hố đen khi nó bốc hơi.“Nếu tôi ném thứ gì đó vào trong, tất cả những thông tin có được lưu trữ ở đường chân trời của lỗ đen hay không?” – Perry đặt câu hỏi. “Đó là vấn đề cần phải tìm ra để giải quyết nghịch lý thông tin. Nếu chỉ có một nửa hay 99% thì chưa đủ - nghĩa là bạn vẫn chưa giải quyết được vấn đề nghịch lý thông tin”. “Chúng tôi có ít câu hỏi cần phải giải hơn trước kia, nhưng chắc chắn là vẫn còn một số vấn đề rắc rối khác”. Marika Taylor, giáo sư vật lý lý thuyết của Đại Học Southampton, cũng là cựu sinh viên của Hawking cho biết: “Hiểu được nguồn gốc vi mô của entropy là một trong những thách thức lớn trong 40 năm qua”. Juan Maldacena, nhà vật lý lý thuyết ở Viện Nghiên cứu cao cấp của Princeton nhận xét: “Hawking đã phát hiện ra rằng hố đen có nhiệt độ. Với các vật thể thông thường, chúng ta biết rằng nhiệt độ là do chuyển động của các thành phần vi mô của hệ thống. Ví dụ như nhiệt độ của không khí là do chuyển động của các phân tử: chúng chuyển động càng nhanh thì càng nóng. “Với các hố đen, chưa rõ liệu những thành phần này là gì, hay chúng có liên quan tới đường chân trời của hố đen hay không. Ở một số hệ thống vật lý có các đối xứng đặc biệt, các đặc tính nhiệt có thể được tính toán theo các đối xứng này. Nghiên cứu cho thấy, gần đường chân trời của hố đen, chúng ta có một trong những đối xứng đặc biệt này”. Nguyễn Thảo (Theo Guardian) Giải Nobel 2020 cho 3 nhà Vật Lý do thành tựu xác nhận về Lổ Đen Black hole.

Tóm tắt thuyết Hawking là từ một singularity nhỏ nhất hơn một quark như một điểm nên không có không gian gặp năng lượng positive và negative chạm vào nhau gây sự nổ tạo thành vật chất đi qua lổ đen và giản nở ra đi mãi mãi trong vũ trụ. Vũ trụ có 90% là black matter. Nói chung là lý thuyết của Einstein kết hợp với Hawking cho ta một khái niệm về Niết Bàn. Niết Bàn là một cõi trong không gian vì vũ trụ có Lổ Đen thì có cõi Niết Bàn nơi quy tụ energy năng lượng của vô tướng.

Sướng khổ và niết bàn theo quan điểm của Phật giáo

(Còn tiếp)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?

Kiến thức 20:09 02/11/2024

Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.

Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp

Kiến thức 14:50 02/11/2024

Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.

Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa

Kiến thức 13:29 02/11/2024

Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.

Nói về Tứ niệm xứ

Kiến thức 10:40 02/11/2024

Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.

Xem thêm