Bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc

Kinh Tất cả các lậu hoặc (Sabbāsava sutta), là bản kinh số 2 thuộc Trung bộ kinh (Majhimanikaya) trong Kinh tạng Pāli. Đây là bài kinh căn bản và vô cùng quan trọng trong 152 bài kinh của Trung bộ. Kinh này nêu rõ bảy phương pháp có thể đoạn trừ tất cả lậu hoặc bao gồm: dục lậu (kamāsava), hữu lậu (bhavāsava) kiến lậu (diṭṭhāsava) và vô minh lậu (avijjāsava). Lậu hoặc là sự rò rỉ, chảy ra những thứ bất tịnh, là những thứ ung nhọt, lên men làm ô nhiễm tâm. Nó là nhân tố chính trói buộc chúng sanh trong khổ đau sanh tử luân hồi.

Dục lậu được định nghĩa

Dục lậu: “Pháp nào đối với các dục có sự mong muốn, tham luyến, vui thích, ái nhiễm, luyến thương, nôn nóng, hôn mê, quyến luyến. Ðây được gọi là dục lậu”1. Hữu lậu: “Pháp nào đối với các hữu có sự mong muốn, tham luyến, vui thích, ái nhiễm, luyến thương, nôn nóng, hôn mê, quyến luyến. Ðây được gọi là hữu lậu”. Kiến lậu là nhận thức sai lầm, tà kiến không đúng với sự thật. Kiến như vậy là thiên kiến, kiến chấp, kiến trù lâm, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến triền, chấp trước, cố chấp, thiên chấp, khinh thị, sái đường, tà đạo, tà tánh, ngoại đạo xứ, nghịch chấp. Ðây được gọi là kiến lậu2. Pháp nào như vậy là sự không biết, không thấy, không lĩnh hội, không liễu ngộ, không thực chứng, không thông suốt, không nhiếp thu, không thấm nhuần, không xét đoán, không phản kháng, không phản tỉnh, thiếu trí, khờ khạo, không tỉnh giác, si mê, si ám, vô minh, vô minh bộc, vô minh phối, vô minh tùy miên, vô minh xâm nhập, vô minh then chốt, si là căn bất thiện. Ðây được gọi là vô minh lậu3. Với bốn loại lậu hoặc này, rất khó để hành giả đoạn trừ. Nếu hành giả nỗ lực để vượt qua được dục lậu thì vẫn còn vướng mắc ở hữu lậu và vô minh lậu. Cứ như vậy, chúng sinh cứ mãi bị sự kiềm tỏa của các phiền não lậu hoặc. Đức Phật giới thiệu lộ trình bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận lậu hoặc một cách trọn vẹn nhất.

Bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc 1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc

Trong bài kinh này, Đức Phật dạy bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc, đó là: Tri kiến đoạn trừ, Phòng hộ đoạn trừ, Thọ dụng đoạn trừ, Kham nhẫn đoạn trừ, Tránh né đoạn trừ, Trừ diệt đoạn trừ, Tu tập đoạn trừ.

Tri kiến đoạn trừ (Dassanā pahātabbāsava): Theo Đại kinh Bốn mươi thuộc Trung bộ thì Tri kiến đoạn trừ là chánh kiến thuộc về tuệ căn, tuệ lực của chi phần giác ngộ, thấy rõ và quán chiếu sâu như thật về các pháp. Đó là Chánh tri kiến thấy rõ về tứ đế, thập nhị nhân duyên, ngũ uẩn, thấy rõ con người và thế giới là vô thường, vô ngã. Nghĩa là do bị trói buộc bởi những tà kiến không thấy được vô thường và vô ngã, phàm phu không thoát khỏi sinh già chết sầu bi khổ ưu não. Ngược lại, thánh đệ tử nhờ tác ý như lý về bốn sự thật của khổ mà giác ngộ thánh đạo giải thoát.

Phòng hộ đoạn trừ (Saṃvarā pahātabbāsava): là giữ gìn chánh niệm khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. (mắt-sắc, tai-thanh, mũi-hương, lưỡi-vị, thân-xúc chạm, và tâm- pháp). Đây chỉ là công phu giữ gìn, phòng hộ thuộc Giới học, chưa đi vào công phu dẹp trừ lậu hoặc. Sự phòng hộ các căn sẽ chế ngự được các tâm lý gây nên tàn hại, nhiệt não gọi là “phòng hộ đoạn trừ”.

Thọ dụng đoạn trừ (Paṭisevanā pahātabbāsava): là biết đủ đối với bốn vật dụng ăn, mặc, ở, bệnh. Thọ dụng là sử dụng các phương tiện sống để hỗ trợ công phu giải thoát, thực hành phạm hạnh, thuộc công phu hộ trì giới bổn.

Kham nhẫn đoạn trừ (Adhivāsanā pahātabbāsava): là hoan hỷ chịu đựng những cảm giác khó chịu về thân và tâm. Ví dụ như những thứ bất như ý, tranh chấp, bạo hành... mà người tu phải giáp mặt: các hiểu lầm, vu khống, mạ lỵ, các rắn rít, ruồi muỗi... Với các đối tượng này, người tu cần kham nhẫn để tránh các phiền não gây trở ngại công phu giải thoát.

Tránh né đoạn trừ (Parivajjanā pahātabbāsava): là tránh những những thứ như người, vật, nơi chốn nguy hiểm, có thể làm phát sinh phiền não, tổn hại đến công phu tu tập giải thoát.

Trừ diệt đoạn trừ (Vinodanā pahātabbāsava): là không chấp nhận cho dục niệm, sân niệm, hại niệm khởi lên, diệt trừ chúng ngay trong ý niệm. Cụ thể là đoạn trừ ngũ triền cái: dục, sân, miên, hối và nghi. Thực hành thiền chỉ, thiền quán để đoạn trừ phiền não, tăng trưởng trí tuệ. Quán duyên khởi, vô ngã và tứ vô lượng tâm.

Tu tập đoạn trừ (Bhāvanā pahātabbāsava): là thường tu tập bảy giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Trong bảy pháp, niệm hay chánh niệm cần luôn luôn có, sáu pháp còn lại thuộc vào hai nhóm: trạch pháp- tinh tấn-hỷ thuộc “động”, khinh an-định-xả thuộc “tĩnh”. Khi tâm lừ đừ, nên tu tập các pháp động, khi tâm quá hăng, nên tu các pháp tĩnh để châm chước, như thợ luyện vàng. Công phu này là thuần thiền quán phát triển mạnh tâm ly tham, tâm từ bỏ sẽ cắt đứt các kiết sử (mười kiết sử) và lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) đoạn tận khổ đau.

Mấu chốt quan trọng trong các phương pháp đoạn trừ lậu hoặc

Ở trên, chúng tôi vừa trình bày bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc. Đó là bảy phương pháp tu tập cơ bản để đoạn tận các lậu hoặc. Trong một vài bài kinh khác, Đức Phật dạy thêm một số phương pháp để đoạn tận lậu hoặc chẳng hạn như: phòng hộ giới bổn, thực hành chánh niệm, sử dụng trí tuệ, sự kiên nhẫn và tinh tấn nỗ lực. Nhưng bảy phương pháp đề cập trong kinh Tất cả lậu hoặc là đầy đủ và súc tích. Không thể thêm cũng không thể bớt. Bởi vì bảy phương pháp ấy bao hàm tất cả mọi phương thức để đoạn trừ các lậu (āsavas) một cách hiệu quả. Ở đây, chúng ta tìm thấy một sự hợp luận lý trong bảy phương pháp đoạn tận lậu hoặc. Phương pháp đầu tiên là Tri kiến đoạn trừ và phương pháp cuối là Tu tập đoạn trừ. Bảy phương pháp đề ra của Đức Phật là hoàn toàn hợp lý, tạo nên một khối thống nhất xuyên suốt để công phá tảng đá kiên cố của lậu hoặc từ đoạn trừ dần dần đến tuyệt diệt hẳn.

Ðiều cần ghi nhớ ở đây là bảy pháp môn đoạn trừ lậu hoặc, tức do Tri kiến (thể nhập vào Tứ Thánh đế), do phòng hộ, do chơn chánh thọ dụng, do kham nhẫn, do tránh né (bạn bè xấu ác, nơi bất xứng v.v...), do trừ diệt (các tà niệm) và do tu tập (các giác chi) tạo thành đề tài chính của kinh Tất cả lậu hoặc này, được tiến hành bởi năm loại phòng hộ vừa đề cập, tức là phòng hộ bằng giới, bằng trí (tuệ), bằng niệm, bằng kham nhẫn và bằng tinh tấn. Tuy nhiên năm cách phòng hộ này không đem lại hiệu quả thực sự nếu nó không bắt nguồn từ như lý tác ý (yoniso manasikāra). Bởi thế, như lý tác ý tạo thành cốt lõi thực sự và là lợi khí hữu hiệu của toàn bộ kỹ thuật đoạn trừ.

Do vậy, điều cần nhấn mạnh ở đây là người “biết” và “thấy”, chứ không cho người “không biết”, “không thấy”. Đức Phật dạy: “Các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, sự đoạn trừ lậu hoặc chỉ có ở nơi những người biết và thấy không phải cho một người không biết và không thấy. Đối với một người hiểu biết những gì, đối với một người nhìn thấy những gì, không đoạn trừ các lậu hoặc xảy ra? Sự đoạn trừ các lậu hoặc chỉ đến với một người hiểu biết và thấy: ‘Đây là khổ. Đây là nguồn gốc của đau khổ. Đây là sự chấm dứt đau khổ. Đây là đường dẫn đến sự diệt của đau khổ’. Đó là một người hiểu biết như vậy, đối với một người nhìn thấy như vậy, rằng sự hủy diệt của lậu hoặc sẽ đến”.

Dù cho một người có thể có giới đức và tín tâm, dù cho người ấy biết chế ngự và tiết độ, song nếu người ấy không có tri kiến hay tuệ thể nhập vào sự vận hành của tâm và vào bản chất hữu vi (do duyên tạo thành) của các pháp, người ấy cũng khó có thể nhổ bật gốc được các lậu hoặc được xem là vô cùng dai dẳng, tế vi và âm ỉ như vậy. Vì vậy mấu chốt của đoạn trừ lậu hoặc chính là Tri kiến đoạn trừ và Tu tập đoạn trừ, tức phương pháp đầu tiên và cuối cùng trong bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc. Trong bảy phương pháp đoạn trừ này, nó sẽ diễn ra qua hai cấp độ, đó là:

(1) “Bứng gốc”, tức hủy diệt các lậu hoặc, để cho chúng không bao giờ khởi lên lại.

(2) “Ðoạn trừ”, tức dập tắt các lậu hoặc, và nhờ sự dập tắt ấy mà phục hồi lại sự hòa hợp và thanh tịnh của tâm, ngay trong kiếp hiện tại này, đồng thời dọn đường cho việc bứng gốc trong tương lai, nếu các lậu hoặc khởi lên. Nhờ đoạn trừ các lậu hoặc thường xuyên như vậy, các lậu hoặc ấy sẽ suy yếu, và do không tiếp thêm nhiên liệu cho chúng, dần dần nó sẽ hao mòn, và cuối cùng phải chết vì kiệt lực.

Trong bảy pháp môn đoạn trừ lậu hoặc, với sự đoạn trừ bằng tri kiến và bằng tu tập, thì các lậu hoặc sẽ bị tiêu diệt theo nghĩa bứng gốc, dẫn đến sự giải thoát tâm. Năm pháp môn còn lại, gồm đoạn trừ bằng phòng hộ, chơn chánh thọ dụng, kham nhẫn, tránh né và trừ diệt thì lậu hoặc bị tiêu diệt theo nghĩa đoạn trừ, như vậy dọn đường cho việc bứng gốc hoàn toàn trong tương lai. Nói theo thuật ngữ thì, trong khi hai pháp môn trước hoàn tất việc đoạn trừ (pahāna) theo lối tuyệt diệt hay bứng gốc (samuccheda), chỉ đoạn hay tịnh chỉ (Patipassaddhi) và xuất ly (Nissarana), thì năm pháp môn còn lại hoàn tất việc đoạn trừ theo các phương pháp “thay thế bằng một sự chọn lựa tích cực” (Tadanga) và trấn phục hay áp chế (vikkhambhana)4.

Trong bài kinh này, từ mấu chốt là Như lý tác ý (Yoniso manasikāra), nó được mô tả bằng một kết quả tâm lý rõ ràng.

“Ðối với vị nào có phi lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh sẽ khởi lên và lậu hoặc đã sanh càng tăng trưởng (trở nên mạnh mẽ hơn). Ðối với vị nào có như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh sẽ không khởi lên và các lậu hoặc đã sanh được đoạn trừ”.

Khi một người chìm đắm trong những tư duy bất thiện, các lậu hoặc ngủ ngầm trở nên hoạt hóa (trỗi dậy hoạt động) và các lậu hoặc hoạt hóa này được tiếp sức mạnh thêm nữa. Cũng như các chất rỉ rét, sanh ra từ sắt, ăn mòn lại sắt như thế nào, thì một sự tác ý bất chánh của tâm, sanh ra từ tâm, ăn mòn lại tâm, làm cho tâm hư hỏng, làm cho tâm ô nhiễm và thối đọa, ngăn cản sự tiến bộ, sự khai mở của tâm, làm suy nhược tâm và phá hủy tất cả những tiềm năng cao cả của nó, cũng y như vậy. Tương tự, khi một người suy tư theo lối chơn chánh và thấy các pháp như chúng thực sự là, các lậu hoặc ngủ ngầm không trở nên hoạt hóa, sẽ chết dần chết mòn; và các lậu hoặc đã hoạt hóa được loại trừ. Trên quan điểm tâm lý, những lời dạy này của Ðức Phật có một ý nghĩa lớn lao vô cùng. Đạo Phật minh triết ở chỗ “đến để mà thấy chứ không phải đến để mà tin”. Toàn bộ cơ chế của sự phát triển tâm cũng như sự khai mở những tiềm năng tinh thần đều dựa trên tiền đề này.

Hai thuật ngữ Như lý tác ý và Phi như lý tác ý không chỉ là nội dung chủ đạo của bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc mà là toàn bộ chủ đề quan trọng của kinh Đoạn tận lậu hoặc. Trong đó Như lý tác ý là vô cùng quan trọng. Nó giống như các trung tâm xung quanh đó xoay toàn bộ phương pháp đoạn tận lậu hoặc. Do vậy, Như lý tác ý trở thành nòng cốt. Nó giống như cái trục, chung quanh nó toàn bộ sự hệ thống hóa nhằm loại trừ hay xoay chuyển các lậu hoặc.

Chữ Yoniso (như lý), bắt nguồn từ chữ Yoni nghĩa là thai tạng, nguồn gốc, mầm mống, nơi sinh hay cảnh giới. Ngược lại, ayoniso (phi như lý) thể hiện một nguồn gốc không tinh khiết, hoặc một điều gì đó về bản chất được xem là nông cạn, hời hợt. Bởi vậy Yoniso ngụ ý một điều gì “tùy thuộc vào nguồn gốc của nó”, một điều gì có căn bản hay nền tảng, tức là tuyệt đối thứ tự, chơn chánh, thích hợp, sáng suốt và có mục đích.

Theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa), “Ở đây, “như lý tác ý” là tư duy chơn chánh và chú tâm hợp theo sự thực. Khi một vật là vô thường, vị ấy thấy nó là vô thường; khi một vật là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, vị ấy thấy nó là khổ, là vô ngã, là bất tịnh; điều này hướng tâm đến khía cạnh thực tế của các pháp, sự trú tâm thường xuyên trên đó, sự hướng tâm vào đó, sự tập trung tâm ý trên đó, và tư duy hợp với cái đó - được gọi là như lý tác ý. Ngược lại, “phi lý tác ý” là tác ý theo cách lệch lạc, tác ý trên căn bản sai lầm. Khi một vật là vô thường, vị ấy tác ý nó là thường; khi một vật là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, vị ấy tác ý nó là lạc, là có thực thể, là tịnh (đẹp). Loại tác ý sai lầm hay có thể gọi là điên đảo kiến này đã hướng tâm đi ngược lại với sự thực, sự trú tâm thường xuyên trên đó, hướng tâm vào đó, tập trung tâm ý trên đó, và tư duy ngược lại với sự thực - được gọi là phi lý tác ý. Khi vị ấy biết bằng cách nào như lý tác ý khởi sanh, và vị ấy thấy vì sao phi lý tác ý không khởi sanh, lúc ấy có sự đoạn trừ các lậu hoặc xảy ra”5.

Nói cách khác, Như lý tác ý là suy xét các pháp một cách chơn chánh, tức là suy xét với trí tuệ, suy xét theo cách có thứ tự, lấy trí tuệ làm trung tâm, làm nguồn gốc hay làm khuôn mẫu cho tư duy của mình. Khi căn nguyên của tiến trình tâm là lành mạnh và đạo đức, và khi những giá trị tinh thần giữ cho tâm chói sáng, thì kết quả chắc chắn cũng sẽ lành mạnh, hiền thiện và tạo ra sự toàn bích.

Ngược lại, nói đến Phi lý tác ý không phải chỉ ngụ ý một nguồn gốc bất thiện, một tà tư duy, hoặc một sự vận hành tâm lộn xộn, phi pháp môn, phi mục đích, mà do cái bản chất hời hợt, nông cạn và không có gốc gác của nó, một cái gì giống như ung nhọt, làm nhiễm độc và suy yếu toàn bộ cấu trúc tâm. Nó biểu thị bằng việc tư duy vô trật tự và phá hoại. Những hàm ý vô cùng thực tiễn của hai từ này (tức Như lý và Phi lý) cần phải được hiểu đầy đủ. Bởi vì toàn bộ vấn đề hệ lụy hay giải thoát khỏi luân hồi đều dựa vào chúng.

Như lý và Phi lý là hai nguyên tắc có tác dụng quyết định tính hiệu lực của bảy pháp môn đã được nêu ra trong kinh. Như lý tượng trưng cho những gì được gọi là phi luân hồi (vivaṭṭa) - không còn hệ lụy, xoay lưng lại hay thoát khỏi vòng luân hồi. Phi lý, ngược lại, là hệ lụy vào, càng lúc càng bị tóm chặt vào trong vòng luẩn quẩn hay gọi cách khác là luân hồi (vaṭṭa). Như vậy, trong khi Như lý là sự giải thoát ra khỏi, thì Phi lý lại là sự vướng mắc hay hệ lụy vào vòng luân hồi6.

Như vậy, xuyên suốt trong bảy pháp môn đoạn trừ lậu hoặc là Như lý tác ý và loại trừ tác ý bất chánh. Như lý tác ý biểu hiện của sự vận hành trí tuệ được trang bị bằng giới và định. Bất như lý tác ý sẽ làm dấy khởi lên tà niệm, tư duy hữu ngã dẫn đến kiến chấp sai lầm trói buộc chúng sanh trong luân hồi sanh tử khổ đau.

Trong bảy pháp môn này áp dụng tùy theo từng trường hợp và nhu cầu của từng hoàn cảnh. Ðó là lý do tại sao Ðức Phật, trong kinh Tất cả lậu hoặc đã nêu lên bảy pháp môn ứng dụng rất khác biệt nhau, đòi hỏi phải được sử dụng một cách thích đáng trong từng trường hợp để mang lại hiệu quả thiết thực nhất.

Phương pháp đầu tiên là rất quan trọng, nó là vũ khí tối thượng, có hiệu quả và có thể loại trừ hoàn toàn vô minh và lậu hoặc. Các pháp môn còn lại là phòng hộ, chơn chánh thọ dụng, kham nhẫn, tránh né, trừ diệt và tu tập như một trận đồ kiểm soát và đoạn trừ toàn bộ các vấn đề làm sinh khởi lên các lậu hoặc. Chẳng hạn như các lậu hoặc nào khởi lên qua các căn, chúng cần được đoạn trừ bằng phương tiện phòng hộ các căn (giác quan). Nếu hành giả không áp dụng kỹ thuật phòng hộ các căn này, chắc chắn chúng sẽ trở nên rối loạn, không thể kiểm soát được. Pháp môn cuối cùng, thực hành pháp tu Thất giác chi. Ðây là pháp môn thích hợp với mọi tình huống trong cuộc sống, chính nhờ vậy mà nó làm nổi bật tính hiệu quả tuyệt vời của các pháp môn. Như vậy, bảy phương pháp đoạn trừ lậu hoặc ngoài việc bảo đảm sự an lạc trong kiếp hiện tại, nó còn cam kết đến một sự an ổn tối thượng của đời sống xuất thế gian.

Chú thích:

1&2&3. Acharya Buddharakkhita, Mind Overcoming Its Cankers, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 2004.

4. Thích Chơn Thiện, Tìm hiểu Trung bộ kinh, tập 1, 2 và 3, Nxb Tôn Giáo, 2017.

5&6&7. Acharya Buddharakkhita, Mind Overcoming Its Cankers, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 2004.

Tài liệu tham khảo:

Kinh Tất cả các lậu hoặc, Trung bộ kinh.Đại kinh Bốn mươi, Trung bộ kinh.Mind Overcoming Its Cankers, Acharya Buddharakkhita.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Đi về phía giáo pháp của Như Lai

Phật giáo thường thức 18:40 27/11/2025

Hãy đi cho kịp trước khi mặt trời lặn. Lời nhắc ấy trong giáo pháp tối hậu vang lên như tiếng chuông cảnh tỉnh.

Buông dính mắc vào “có” và “không”

Phật giáo thường thức 15:22 27/11/2025

Trong đời sống hằng ngày, đa phần chúng ta đều giống nhau: khi có thì bám vào cái có, khi không thì lại bám vào cái không.

Tại sao tôi chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần?

Phật giáo thường thức 12:38 27/11/2025

Khi thành lập Thiền viện, tôi nhìn lại kỹ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam, những mốc nào những điểm nào thích hợp với hoàn cảnh, với đất nước hiện tại để chọn làm cái mốc son; chúng ta tu, truyền bá, đem ra phổ biến cho mọi người thấy biết mà ứng dụng.

Xem thêm