Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ sáu, 22/10/2021, 10:27 AM

Dòng sông tâm thức: Hoa Nghiêm (I)

Kinh Hoa Nghiêm là kinh Phật giảng đầu tiên sau khi giác ngộ dưới cội bồ đề cho chư thiên và Bồ tát.

Vì thế kinh có vẻ siêu việt vũ trụ và Phật hoà nhập, lúc bấy giờ Phật không còn là con người phàm tục bị giới hạn của không gian và thời gian. Khái niệm này bị xóa bỏ. Quá khứ tương lai đều qui về hiện tiền, quá khứ là hiện tại và tương lai cũng vậy. Có nghĩa là thời gian không là ý niệm do con người ý thức phân biệt đặt ra. Tâm đó là cảm quan và luận lý của ý thức. Phật là thế giới tâm linh. Thế giới đó tất cả là hiện tại, Phật đống đô trụ xứ vô trụ của Người. Và thời gian trở thành vòng tròn kín nên không có bắt đầu hay chấm dứt không có quá khứ hay tương lai. Và nó lồng vào trong nhau nên một là tất cả tất cả là một là chân lý Hoa Nghiêm. Diễn tả ý tưởng tương thuận tương nhiếp nên chói sáng trong suốt vượt ra khỏi thế giới đầy u tối xấu xí đầy rẫy. Tương túc tương nhân đó là Pháp giới duyên khởi trùng trùng chằng chịt nhau. Sự khác biệt giữa Bồ TátA La Hán được nhận rõ qua kinh Hoa Nghiêm là sự khác vọng của Đại Thừa và Nguyên Thủy. Nơi đó Đại Thừa diễn đạt Phật như người nông dân đang xới đất trồng lúa với Tánh Không và Duy thức Vô ngã và Như Lai tạng.

Kinh Hoa Nghiêm: Nguồn gốc, ý nghĩa và nội dung

dong-song-tam-thuc_2-0957

Tin tưởng: Hoa Nghiêm là kinh trên căn bản của Pháp giới duyên khởi với lý và sự vô ngại. Vì trên nền tảng duyên khởi nên chúng không có tự tánh và hổ túc lẫn nhau. Hỗ túc hỗ nhập có nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau mà hiện hữu nên có kết luận một là tất cả tất cả là một. Trên hình thức chúng đối nghịch nhau nhưng bản chất thì hỗ trợ tương nhập vào với nhau. Ví như một giàn hạt châu sáng lộng lẫy do chiếu sáng của nhiều hạt châu, mỗi hạt chiếu sáng lẫn nhau. Mỗi tấm lưới phản chiếu hạt châu và mỗi hạt châu phản chiếu các hạt châu khác và phản chiếu tấm lưới. Chiếu như vậy nên gọi là trùng trùng duyên khởi.

Kinh dùng các chữ hỗ tương, hỗ nhập, dung thông, tương nhiếp, vô ngại. Chính là sự tương thông này mà Hoa Nghiêm đưa ra lý thuyết vì nó làm duyên cho nhau với quá nhiều yếu tố tạo điều kiện cho duyên khởi lên, nên tuy nó có hình thức đối nghịch nhau nhưng nó lại hỗ tương về mặt bản thể, tức là cái này có trong cái kia và ngược lại. Khi đi đến Như Lai tạng mới nhận ra được lẽ tất cả duyên cho nhau đó là cái dụng, cái ứng dụng, cái áp dụng của Phật tánh.

Khi học kinh Pháp Hoa có Phật tánh chúng ta mới biết chỉ một Phật thừa là vì vậy. Sự phân biệt của các thừa không còn vì chúng đồng nhất nhau tương dung nhau không ngăn ngại nhau, thì có khác nhau về các tên gọi là thức nhưng thực chất là nhất thừa. Đứng trên duy thức thì chúng là thức thì làm gì có sinh diệt? Và không dinh diệt thì gọi là vô sinh tức là hủy bỏ nhị biên của thức phân biệt. Chúng ta đi vào Hoa Nghiêm thì nghiệm ra được không sinh diệt, không có hữu hay vô, tức là không có hiện hữu hay không hiện hữu. Đã không hữu và vô thì bỏ nhị biên tương đối thì đúng là hết vô minh. Hết vô minh thì 12 nhân duyên bẻ gãy. Từ vô minh đã hết tức là Bồ Tát thập địa tức là ngộ Vô sanh pháp nhẫn.

Khi nói đến Hoa Nghiêm là nói đến duyên khởi của Pháp giới hay Trùng trùng duyên khởi.  Trước khi đi đến Pháp giới duyên khởi thì đã qua Chân như duyên khởi ở trong A lại da duyên khởi. Phật dạy duyên khởi của các pháp đi tuần tự về luân hồi thì Nghiệp cảm duyên khởi, về chân như thì Chân như duyên khởi và tổng hợp hết cả 3 duyên khởi lại thì Trùng trùng duyên khởi. Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta hiểu được cơ bản là vạn pháp luôn luôn thay đổi luôn luôn động không có tĩnh.

Như vậy cái hai đầu cực đoan có và không, phải trái, sinh diệt…của nhị nguyên thì các pháp không đứng yên ở hai đầu này hơn một sắc na. Trung quán luận ra đời là như vậy. Duy thức ra đời sau đó thì là do thức mà hiện hữu. Lăng Nghiêm kế tiếp vạn pháp do tâm biển hiện và khi nó hiện hữu thì nó chuyển vận theo duyên mà di chuyển không ngừng giữa hai cực đoan của nhị nguyên tính.

Tôi học Kinh Hoa Nghiêm

Tóm lại tất cả yếu tố trên ta nhận ra vạn pháp như huyễn vì do tâm thức biến hiện, vậy nó có sinh có diệt không? Thức thì làm gì sinh ra hay mất đi mà nó chỉ di động thành vòng tròn kín không có bắt đầu cũng không chấm dứt. Khi nó vô sinh thì ta nhận ra được tâm thức đó là Chân như là Niết bàn là Chân tâm là Phật tánh. Lúc bây giờ ta mất cái hữu và cái vô, cái có và cái không, cái sinh và cái diệt, mất cái hình tướng và cái vô tướng. Hai cái này do thức phân biệt mà hiện hữu nên thức này thành trí là hết vô minh, rồi ta thấy tướng và vô tướng nhập lại là một. Hoa Nghiêm cho lúc bấy giờ một là tất cả và tất cả là một, tức cái nầy lồng trong cái kia và sự hiện hữu của chúng tương thông không ngăn ngại cản trở nhau chấp nhận nhau tuy nhìn vào thấy đối kháng nhưng thực chất bản thể là một. Để dễ hiểu chúng ta hãy thiền định rồi bắt đầu thiền quán chiếu.

Tất cả các pháp đều có hai mặt: lý và sự hay gọi là bản thể và hiện tượng. Hay còn gọi là hình tướng và vô tướng. Nói rộng ra sự sự là con người đối xử con người trong xã hội. Còn lý là lý thuyết là lý tưởng là triết lý. Chúng hiện hữu như hai mặt của một bàn tay. Kinh gọi là tương thông nhiếp vô ngại lẫn nhau. Gom lại cả hai đó là Pháp giới của Phật. Tu lên Bồ Tát là đạt được tánh Không và Duy thức cũng Như Lai Tạng Phật tánh. Lúc bây giờ hết vô minh nên đạt được tánh Không và Vô sanh pháp nhẫn cũng như vạn pháp do tâm biến hiện. Vì tâm thức nên nó như huyễn và không có sinh ra và diệt đi vì nó là vòng tròn kín sinh rồi diệt rồi sinh, vì là thức nên nó vô tướng tuy nó là hữu tướng do thức của ta đặt cho cái tên hiện hữu. Vì nó vận hành theo duyên nên nó không có tự ngã nên là không. Vì nó là thức nên nó là Phật tánh là Như Lai tạng.

Như vậy ta nhận được sự thật của các pháp là chân thật như như là Chân như là Niết Bàn nên chúng ta thành Bồ Tát không còn sinh diệt chết sống luân hồi. Chúng ta là Bồ Tát nên chỉ là một năng lượng của tâm thức nên không cố định vị một nơi nào trên vũ trụ này mà bàng bạc khắp mọi nơi gọi là Vô dư Niết Bàn. Vô sanh pháp nhẫn được hiểu bằng cách: Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy rất kỹ về Vô Sanh Pháp Nhẫn, từ khi nói về thắt nút và mở nút với 6 mở 1 mất. 6 mở đó là 6 căn mà lấy căn Ý để mở trước thì 5 căn còn lại mở hết. Còn 1 mất là Trần tướng mất đi vì nó là sanh diệt.

dong-song-tam-thuc-5-2132

Như vậy hiểu được Vô Sanh Pháp Nhẫn và Nhẫn không. Tức là Nhẫn không mà Pháp cũng không rồi 5 uẩn cũng không. Sở không tức là 6 trần không, năng không tức là 6 căn cũng không, tức là tịch diệt. Bản thể đó là duyên của hiện tượng không tách rời ra được. Hiện tượng thay đổi không ngừng có sinh có diệt nhưng bản thể thì đứng yên không có sinh mà cũng không có diệt. Vì thế tu tập là đi tìm về bản thể tức là tìm cái không sinh diệt. Vì hiện tượng sinh diệt thay đổi liên tục nên mới gọi nó là do tâm thức biến hiện theo Lăng Nghiêm, hiện tượng ấy là giả là ảo ảnh. Đại Thừa có nhiều kinh giải thích hiện tượng này theo kinh mà có mặt. Chúng ta là con Phật thì dùng quán chiếu mà nhận ra vạn pháp thật tướng nó là gì? Mà ngộ được đạo. Cảnh và trí đều mất nên cắt đứt được kiến hoặc, lậu hoặc. Vô sanh là không sanh không diệt. Giải thích đơn giản là 12 nhân duyên lấy duyên khỏi làm chính. Khi Hữu có duyên thì Sinh hiện ra nên có duyên là già chết. Mà Hữu là có mặt thì đối lại là Vô là không có mặt. Vậy hữu không có thật vì hữu là trần cảnh, trần cảnh này do thức mà có mặt. Trần cảnh nầy đứng có mặt nhưng lại do duyên mới có mặt như vậy nó có tự ngã đâu có cố định đâu mà cho là hữu. Nó không bao giờ đúng yên một vị trí nên không gọi là hữu thực sự, nó có mặt do cái khác có mặt nó diệt đi khi cái khác diệt đi.

Vậy hữu không đứng yên thành vô bất cứ lúc nào. Hữu thành vô nên không thể làm duyên cho Sinh khởi được vậy là không có sinh, thì không có diệt. Vạn pháp giải thích theo Duy thức thì là do tâm thức biến hiện, giải thích theo Nguyên Thủy thì nó là do duyên khởi nên có hữu. Giải thích kiểu nào nó cũng đều là không cố định là không tự nhiên mà có nên nó là hữu chỉ ở một khoảng khắc nào đó thôi, nó thật sự là không phải hữu lâu bền. Vậy không sinh nên không diệt là vậy. Giải thích theo tánh Không là không tự ngã tức là vô ngã thì Bát Nhã tâm kinh nói 5 uẩn vai không là đây.  Uẩn nếu là không là không tự ngã thì hữu làm gì có hiện hữu tức là 5 uẩn không có phải là hữu lâu dài mà là không rồi hữu rồi không. Tóm lại chứng ngộ là ngộ vô sanh không sinh không diệt là ngộ không có hữu mà cũng không có vô mãi mãi. Lúc nào nó cũng là hữu và cũng là vô. Áp dụng phân tâm học ngày nay lúc nào hiện tượng đều có luôn bản thể ở sau lưng vì nó vô tướng còn hiện tượng là hữu tướng.

Ý nghĩa thành đạo theo kinh Hoa Nghiêm

Theo kinh Hoa nghiêm, từ tín thành tựu phát tâm tới viên mãn Bồ đề tâm Bồ tát phải trải qua 52 địa vị tu hành gồm có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, và Diệu giác. Vì Pháp giới viên dung vô ngại nên 52 hạnh vị hỗ tương nhiếp nhập không ngăn ngại, và mỗi hạnh vị vẫn giữ tính cách cá biệt của nó. Vì viên dung có nghĩa là nhân gồm biển quả và quả thấu nguồn nhân cho nên giai vị thứ nhất tín thành tựu sơ phát tâm đồng thời là giai vị chứng ngộ thứ 52, Diệu giác. Tuy nhiên hành giả vẫn phải tu hành đầy đủ bốn phần, tín, giải, hành, chứng, của Phật đạo gồm 52 hạnh vị ấy.

Để giải thích quá trình 52 giai vị của Bồ tát, Tông Mật và Phổ Chiếu triển khai thuyết Đốn ngộ tiệm tu theo trình tự ba bậc, giải ngộ, tiệm tu, và chứng ngộ. Giải ngộ là đốn ngộ ngay khi phát khởi Tổ tín, “Ta là Phật”. Thuyết này được minh chứng bằng cuộc hành trình cầu học của Thiện Tài Đồng tử trình bày trong Phẩm Nhập Pháp giới, phẩm cuối cùng của kinh.

Trong kinh Hoa nghiêm, hầu như trang nào cũng dính đến tín, nhưng có sáu Phẩm được nói rõ là thuộc pháp hội Thập tín, hội thứ hai trong chín hội, được giảng tại điện Phổ Quang Minh. Hội chủ là Bồ tát Văn Thù, Bồ tát của Đại trí, tượng trưng cho nhân từ là lòng thành tín chân thật và quả tu là trí huệ Bát nhã. Sáu Phẩm ấy là: Phẩm 7: Như Lai Danh hiệu; Phẩm 8: Tứ Thánh đế; Phẩm 9: Quang Minh Giác; Phẩm 10: Bồ tát vấn minh; Phẩm 11: Tịnh hạnh; Phẩm 12: Hiền Thủ. Ba Phẩm 10, 11, và 12 luận bàn về tín trên quan điểm giải, hành, và chứng theo tông chỉ Hoa Nghiêm. Các Phẩm 7, 8, và 9 giải thích theo thứ tự thân, khẩu, và ý của đức Phật, nhấn mạnh sự giác ngộ của đức Phật là nội dung của tín. Chủ điểm của ba Phẩm này là tín và chứng bất tương ly. Nội dung của tín được trình bày trong Phẩm 9.

dong-song-tam-thuc-6

Lý Thông Huyền phân tích Phẩm 9 như sau: “Phẩm này có tên là ‘Quang Minh Giác’. Mục đích là thuyết minh nhân, mà ở đây nói về giai đoạn Thập tín, từ dưới dấu bánh xe nơi bàn chân Như lai phóng ra ánh sáng rọi khắp mười phương. Đầu tiên nói, một cõi Ba nghìn đại thiên. Kế đến, rộng lớn thêm, cho đến hư không giới pháp giới bất khả thuyết. Mục đích là thuyết minh về vô tận, khiến cho những ai có tín tâm thì tâm được mở rộng đến vô tận, vô ngại, đồng đẳng với hư không giới pháp giới.

Nói rõ Pháp thân, Trí thân của chính mình, cùng nguyện và hành, cũng đều đồng đẳng như vậy. Vì nơi nào được ánh sáng rọi đến, nơi đó tín tâm được giác ngộ, khiến cho tu hành. Do nhân duyên này mà tên của Phẩm được gọi là ‘Quang minh giác’. Những ai tu hành, mỗi mỗi dõi theo ánh sáng mà quán chiếu cả nười phương, cho đến khi tâm năng quán cũng cùng tận, tức là đồng một thể với Pháp thân.

Vị đã nhập tín tâm, với sơ tâm nhập thập trụ, mỗi mỗi dõi theo ánh sáng của mây, đèn, bảo sắc, quán nội tâm và các phương sở, một cách tổng thể khiến cho tâm và cảnh không có trong, ngoài, trung gian, như vậy mới có thể nhập phương tiện tam muội, đi vào cửa pháp Thập trụ. Nếu quán ánh sáng của bảo sắc như vậy mà không thành tất cả biển nguyện của Phổ Hiền, thì cũng không thể thành thần thông lực, đại dụng của chư Phật.” (Hoa nghiêm kinh luận. Tuệ Sỹ dịch).

(Còn tiếp)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần

Nghiên cứu 09:40 15/11/2024

Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo

Nghiên cứu 09:45 19/10/2024

Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.

Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội

Nghiên cứu 09:30 06/10/2024

Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.

Xem thêm