Nền tảng của đời sống
Một người bình thường không được tiếp xúc với tôn giáo sẽ không biết sống thế nào, thấy đời sống rất ít ý nghĩa, sống vài mươi năm rồi chết, có được một số thành công trên đời rồi chẳng mang theo được thứ gì. Sống và chết, cuộc đời chỉ có thế thôi sao?
Ý nghĩa và giá trị của đời sống, đó là câu hỏi mà ngay cả các triết học, các ngành khoa học đều lúng túng và không có câu trả lời tối hậu, vẫn trên con đường nghiên cứu của mình. Không có một bản thể luận (tôi là ai? là cái gì?), một thế giới quan (tôi nên sống như thế nào trong thế giới này?), một nhận thức luận (nhận thức của tôi về người khác và về thế giới có thể đúng tới mức nào?)... cuộc đời chúng ta sẽ lạc lõng trong một thế giới xa lạ, giữa những con người khác biệt... và điều đó đem lại khổ đau.

Câu hỏi lớn nhất của đời người là câu hỏi về hạnh phúc, một hạnh phúc không tùy thuộc vào mọi hoàn cảnh, Đức Phật đã trả lời cho chúng ta từ 2.600 năm trước, bằng chính kinh nghiệm trực tiếp của Ngài, bằng chính thân tâm của Ngài ngay tại thế gian này. Và sau đó đã được chứng nghiệm - dẫu không hoàn toàn như Ngài - bởi các đệ tử suốt dòng lịch sử. Đó là những chứng nhân, những người làm chứng cho con đường, cho Pháp.
Nền tảng của đời sống mỗi người là cái gì? Chúng ta đang sống trên và trong cái gì? Đâu là cái đầu tiên và cuối cùng của mỗi chúng ta? Nền tảng ấy được gọi bằng nhiều tên trong các kinh điển: Phật tánh, Như Lai tạng, tánh Không, tánh Như, Tự tánh, Pháp tánh...
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (kinh Đại Bát- niết-bàn).
“Pháp tánh bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, vô khởi vô tác, chẳng phải trụ chẳng phải chẳng trụ, vì pháp tánh, tướng pháp tánh rỗng không vậy.Như pháp tánh, các pháp khác cũng như vậy, chẳng phải trụ chẳng phải chẳng trụ” (kinh Đại Bát-nhã, phẩm Xuất đáo).“Vì có Phật hay không Phật vẫn là Như: pháp tướng pháp tánh thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt” (kinh Đại Bát-nhã, phẩm Lục độ tương nhiếp).
“Như Lai tạng chẳng phải tức là các pháp, nhưng cũng chẳng phải lìa các pháp” (kinh Lăng nghiêm).
“Phật tánh chẳng phải tức là sáu pháp (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nhưng cũng chẳng lìa sáu pháp. Vì thế ta nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải sắc chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã chẳng phải lìa ngã” (kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Sư tử hống Bồ-tát).
“Chẳng phải” đây là siêu việt tính (transcendence) của thực tại tối hậu, và “chẳng lìa” là nội tại tính (immanence) của nó. Ở các tôn giáo nhất thần, thực tại tối hậu là siêu việt tính, ở ngoài con người và thế giới, nhưng không có nội tại tính, không có nơi con người và thế giới. Còn với khoa học duy vật, thì chỉ có nội tại tính mà không có siêu việt tính.
Với Phật giáo, cái mà chúng ta gọi là Nền tảng trong bài này thì siêu việt khỏi con người và thế giới, được diễn tả bằng các câu nói “bất khả đắc”, “vô sở hữu”, “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghì”... Nhưng đồng thời nó cũng có mặt, cũng nội tại trong con người và thế giới, cho nên chúng ta có thể gặp gỡ, tiếp xúc, chứng ngộ nó ngay trong thân tâm và thế giới này.
Đạo tràng là nơi chốn người ta hành đạo, để tiếp xúc, gặp gỡ Đạo hay Thực tại Tối hậu. Ở một nghĩa rốt ráo, đạo tràng chính là thực tại tối hậu, là tánh Không, là Phật tánh, là Như Lai tạng... Cho nên, khi Đồng tử Quang Nghiêm hỏi ngài Duy-ma-cật, “Cư sĩ từ đâu đến đây?”, thì trưởng giả Duy-ma-cật đáp, “Tôi từ đạo tràng mà lại”.
Một người hành đạo thực sự thì không ra khỏi đạo tràng, không lìa đạo tràng Phật tánh, tánh Không, Như Lai tạng. Nhưng đạo tràng ấy rộng bao nhiêu, có những cái gì để có thể hấp dẫn người ta không lìa đạo tràng mà trở lại đời thường?
Đồng tử Quang Nghiêm hỏi tiếp, “Đạo tràng là ở đâu?”.
Ngài Duy-ma-cật đáp, “Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả vậy. Phát hạnh là đạo tràng, vì có thể phụng sự vậy. Thâm tâm là đạo tràng, vì tăng thêm công đức vậy. Bồ-đề tâm là đạo tràng, vì không sai chạy vậy. Bố thí là đạo tràng, vì chẳng mong phước báo vậy. Giữ giới là đạo tràng, vì các thệ nguyện được tròn vậy. Kham nhẫn là đạo tràng, vì với chúng sanh tâm không ngại vậy. Tinh tấn là đạo tràng, vì chẳng lười biếng vậy. Thiền định là đạo tràng, vì tâm điều nhu vậy. Trí huệ là đạo tràng, vì thấy rõ các pháp vậy. Từ là đạo tràng, vì bình đẳng với tất cả chúng sanh vậy. Bi là đạo tràng, vì chịu khổ nhục vậy. Hỷ là đạo tràng, vì vui thích trong pháp vậy. Xả là đạo tràng, vì đoạn hết thương ghétvậy”.
Đạo tràng ấy chính là tâm người hành đạo, với các thứ trang nghiêm cho tâm: trực tâm, bồ-đề tâm, sáu ba- la-mật, từ, bi, hỷ, xả... Với những thứ trang nghiêm cho tâm như vậy, thì đi đâu cũng là đạo tràng. Cuộc đời bình thường dần dần biến thành đạo tràng, vì đi đâu, ở đâu cũng là chỗ hoạt dụng của các thứ trang nghiêm của tâm.
“Thần thông là đạo tràng, vì thành tựu sáu thần thông vậy. Giải thoát là đạo tràng, vì không khởi ý phân biệt vậy. Phương tiện là đạo tràng, vì giáo hóa chúng sanh vậy. Bốn nhiếp pháp là đạo tràng, vì thâu nhiếp chúng sanh vậy. Đa văn là đạo tràng, vì thực hành cốt lõi vậy. Điều phục tâm là đạo tràng, vì chánh quán các pháp vậy. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng, vì xả bỏ pháp hữu vi vậy. Bốn đế là đạo tràng, vì không lừa gạt thế gian vậy. Duyên khởi là đạo tràng, vì vô minh cho đến lão tử đều vô tận như hư không vậy. Các phiền não là đạo tràng, vì biết bản tánh của chúng vậy. Chúng sanh là đạo tràng, vì biết là vô ngã vậy. Tất cả là đạo tràng, vì biết các pháp Không vậy”.
Tâm ấy, với hoạt động Bồ-tát được trang nghiêm bởi Phật pháp, được mở rộng bao trùm cả thế giới và chúng sanh, tâm ấy biến pháp giới thành đạo tràng, biến sanh tử thành Niết-bàn. Đạo tràng không còn chỉ là một nơi chốn thanh tịnh để tu hành mà trùm khắp pháp giới, biến pháp giới thành đạo tràng của giác ngộ.
“Hàng phục ma là đạo tràng, vì chẳng nghiêng động vậy. Ba cõi là đạo tràng, vì không chỗ đi và đến vậy. Sư tử rống là đạo tràng, vì không chỗ sợ vậy. Mười lực, vô úy, các pháp bất cộng là đạo tràng, vì không thể chê trách vào đâu được vậy. Ba minh là đạo tràng, vì không còn sót chút chướng ngại nào vậy. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu Nhất thiết trí vậy.
Như thế, thiện nam tử! Bồ-tát nếu ứng ra các Ba-la- mật mà giáo hóa chúng sanh, thì bao nhiêu việc làm, hoặc giở chân lên hạ chân xuống... phải biết đều từ đạo tràng mà lại, đều trụ trong Phật pháp vậy.
Khi thuyết pháp như vậy, năm trăm trời và người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Bồ-tát bao trùm tất cả pháp giới và chúng sanh vào trong đạo tràng, và khi ấy bản chất của mình, người, thế giới đều biến thành “vàng ròng”. Tất cả việc làm, cử chỉ hạ chân giở chân... đều lưu xuất từ đạo tràng vàng ròng ấy nên đều là vàng ròng, đều “trụ trong Phật pháp”.
Như phẩm Phật quốc thứ nhất, kinh Duy-ma-cật nói:
“Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng. Thân tâm thanh tịnh, y nơi trí huệ Phật bèn thấy cõi này là cõi Phật thanh tịnh. Nếu tâm người tịnh liền thấy cõi này đầy đủ công đức trang nghiêm”.
Khi nền tảng Phật tánh đã được khai mở trọn vẹn thì tất cả thế giới, chúng sanh lưu xuất từ nền tảng ấy chính là nền tảng Phật tánh, tất cả vốn “trụ trong Phật pháp”. Khi ấy đời sống hàng ngày ở thế gian này chính là biểu lộ của Niết-bàn Phật tánh, xưa nay đều trụ trong Phật pháp, đều là biểu lộ thanh tịnh của cõi Phật.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Đừng hẹn đến già mới tu!
Phật pháp và cuộc sốngNgười xưa có thói quen, khi một người thân đau nặng, sắp tắt hơi thở cuối cùng thì đến sát bên tai thì thầm: “Phut-tho… Phut-tho… Phut-tho…” (niệm Phật).
Tăng Ni sinh Học viện PGVN tại Hà Nội hiến máu, ủng hộ lũ lụt
Phật pháp và cuộc sốngSáng 23/11, tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (Sóc Sơn), hơn 500 Tăng Ni sinh đã hoan hỷ tham gia Ngày hội “Hiến máu cứu người - Hành Bồ-tát đạo” và đăng ký hiến mô, tạng nhân đạo năm 2025.
Thương bà con mình lắm...
Phật pháp và cuộc sốngMấy ngày nay miền Trung với Tây Nguyên oằn mình trong lũ, nước lên nhanh và thiệt hại thì không biết nên nói làm sao cho hết…
Người dân ở xã Hòa Thịnh kể chuyện leo lên bàn thờ Phật tránh lũ
Phật pháp và cuộc sốngKhi lũ dâng cao ở Hòa Thịnh (Đắk Lắk), hàng trăm người dân kéo vào chùa Long Quang trú ẩn. Nước ngập hơn 1 mét trong chánh điện, có phụ nữ mang thai bám trụ suốt đêm chờ cứu hộ.
Xem thêm














