Như ngôi nhà khéo lợp
Kinh Pháp Cú có hai bài kệ nói về tâm khéo tu tập và tâm không tu tập, được ví như ngôi nhà khéo lợp và ngôi nhà vụng lợp, từ đó an lạc hay khổ đau phát sinh: Như ngôi nhà khéo lợp, Mưa không xâm nhập vào; Cũng vậy tâm khéo tu, Tham dục không xâm nhập. Như ngôi nhà vụng lợp, Mưa liền xâm nhập vào; Cũng vậy tâm không tu, Tham dục liền xâm nhập. (1)
Cái tâm mà khéo tu khéo tập thì tham dục không có cơ hội xâm nhập, giống như ngôi nhà khéo lợp thì mưa không thể thấm vào. Trái lại, cái tâm mà không tu không tập thì tham dục liền xâm nhập, giống như ngôi nhà vụng lợp thì mưa sẽ thấm chảy vào. Ngôi nhà mà không bị mưa dột thì con người sống được an lạc, không chịu cảnh phiền muộn khổ sở. Ngược lại, nhà ở mà bị mưa thấm ướt thì con người sống bất an, phải chịu cảnh phiền muộn khổ đau. Để tránh cảnh cửa nhà thấm ướt vì mưa gió thì mái nhà cần phải được lợp che cho kỹ; tương tự, để tránh phiền muộn khổ đau do tham dục quấy nhiễu thì cái tâm cần phải khéo tu tập. Thế nào là tâm khéo tu tập?
Kinh Pháp Cú lại nêu rõ:
Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng;
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến. (2)
Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không hận, công phá,
Đoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi. (3)
Tâm khéo tu tập là tâm được phòng hộ kỹ lưỡng, khiến cho tham dục và sân hận không có cơ hội xâm nhập, quấy nhiễu; cái tâm không còn dính mắc, quay cuồng giữa các đối cực tốt xấu, hơn thua, được mất; cái tâm luôn luôn tỉnh giác, thoát khỏi mọi ám ảnh sợ hãi. Đó chính là tâm giải thoát, tâm an lạc, cái tâm được khéo tu tập lâu ngày thành ra thuần thục, định tĩnh, vững vàng; dù có gặp cảnh ngộ nào, thuận duyên hay nghịch ý, cái tâm ấy vẫn thanh thản, an nhiên tự tại, không dao động, không thuận ứng hay nghịch ứng. Nói cách khác, đó là cái tâm đã thoát khỏi tham-sân-si, hoàn toàn tỉnh giác và sáng suốt, thấy rõ bản chất hư huyễn của hết thảy các pháp, không còn bị nội hay ngoại duyên chi phối, không mê say tham đắm khi gặp thuận duyên, (các căn gặp các đối tượng thích ý, hấp dẫn), không giận dữ bực phiền khi đối diện nghịch cảnh (các căn tiếp xúc với các đối tượng không thích ý, không hấp dẫn). Trong sinh hoạt hàng ngày, nó được diễn tả như vầy:
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn,
Là hạnh phúc tối thượng. (4)
Về phương pháp tu tập để tâm dần dần thoát khỏi các dục, thoát khỏi mọi ám ảnh và chi phối bởi tham-sân-si, đạt đến giải thoát, tự do, an nhiên tự tại, Đức Phật cho chúng ta nhiều lời khuyên thật căn bản và bổ ích. Ngài nói lại các kinh nghiệm tu tâm của mình giúp cho chúng ta tìm thấy được nhiều phương pháp hành trì thích hợp. Sau đây là một vài pháp môn thực tập căn bản:
- Pháp môn khởi tâm đoạn trừ các bất thiện pháp, nuôi dưỡng các thiện pháp:
“Này Cunda, Ta nói rằng sự khởi tâm rất có lợi ích cho các thiện pháp, còn nói gì thân nghiệp, khẩu nghiệp phù hợp với tâm ý. Do vậy, này Cunda: “Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta ở đây sẽ không làm hại”, cần phải khởi tâm như vậy. “Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh”, cần phải khởi tâm như vậy... “Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, cần phải khởi tâm như vậy”. (5)

- Pháp môn chú tâm cảnh giác, không để cho các bất thiện pháp hay các pháp chướng ngại - tham-sân- si - sanh khởi quấy rầy tâm thức:
“Ở đây, này Mahànàma, vị Thánh đệ tử ban ngày trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh giữa, vị này nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp”. (6)- Pháp môn đoạn trừ các khuynh hướng bất thiện của tâm - dục tầm, sân tầm, hại tầm:
“Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm. Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sân tầm khởi lên... hại tầm khởi lên. Ta tuệ tri: “Hại tầm này khởi lên nơi Ta, và hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Hại tầm này đưa đến tự hại”…“Hại tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”, hại tầm biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm... về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về hại tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm. Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò, cầm roi đánh các con bò bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chặn chúng. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp”. (7)
- Pháp môn đình chỉ các tư duy bất thiện liên hệ đến tham, sân, si:
“Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm? Ở đây, Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một Tỷ-kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ý một tướng khác với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy: “Đây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo”. Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức, nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư Tỷ- kheo, cũng vậy, Tỷ-kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chư Tỷ- kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: “Tại sao ta lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại”. Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: “Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại”. Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: “Tại sao ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống”. Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: “Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống”. Chư Tỷ-kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy tác ý đến... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại. Chư Tỷ- kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh”. (8)
Nhìn chung, có nhiều cách để tu tâm hay điều phục tâm ý thích ứng với các căn cơ khác nhau của chúng sinh được tìm thấy trong vô số huấn thị căn bản của Đức Phật lưu ở các bộ kinh Nikàya. Tuy nhiên, căn bản của việc tu tâm là phải nhận thức cho thật rõ những gì làm cho tâm vốn trong sáng thanh tịnh trở nên bị cấu uế ô nhiễm, phải thấy rõ dục tầm, sân tầm, hại tầm; dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy; hay những khuynh hướng tâm thức liên hệ đến tham, liên hệ đến sân, liên hệ đến si chính là những thứ làm cho tâm cấu uế ô nhiễm. Nhận thức rõ các cấu uế rồi thì bắt đầu ứng dụng các phương pháp mà Đức Phật đã chỉ dạy để tu tập, kiên trì tu tập, khiến cho tâm sanh khởi và vận hành theo hướng chân chánh hiền thiện, không rơi vào đường tà ác; khiến cho tâm được phòng hộ thoát khỏi các bất thiện pháp hay các pháp chướng ngại tham-sân-si; khiến cho tâm được uốn nắn rời xa dục tầm, sân tầm, hại tầm; khiến cho tâm được điều phục thoát khỏi các tư duy liên hệ đến tham, liên hệ đến sân, liên hệ đến si. Đó chính là các biện pháp tu tập được khéo ứng dụng, khiến cho tham dục không có cơ hội xâm nhập tâm hay khiến cho tham-sân-si được khắc phục và loại trừ khỏi tâm thức, làm cho tâm dần dần trở nên trong sáng, thanh tịnh, không uế nhiễm, được thanh thản, an lạc, thoát khỏi mọi phiền muộn khổ đau; giống như ngôi nhà khéo lợp, không bị mưa thấm ướt thì con người sống ở trong đó được an lạc, tự tại, không còn phải chịu cảnh phiền não khổ sở vậy.
Chú thích:
1. Kinh Pháp Cú, kệ số 13-14.
2. Kinh Pháp Cú, kệ số 36.
3. Kinh Pháp Cú, kệ số 39.
4. Kinh Điềm lành tối thượng, Kinh Tập, Tiểu Bộ.
5. Kinh Đoạn giảm, Trung Bộ.
6. Kinh Hữu học, Trung Bộ.
7. Kinh Song Tầm, Trung Bộ.
8. Kinh An trú tầm hay Đình chỉ tư duy, Trung Bộ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Ngộ đạo
Phật giáo thường thứcQuí vị có khi nào nghĩ mình là cái gì không? Chắc không! Cứ hài lòng với con người như vậy, sự sống như vầy là đủ rồi.
Học cách buông bỏ những chấp trước
Phật giáo thường thứcKhông có gì là bền chắc hoặc tồn tại vĩnh viễn. Những gì chúng ta thấy, cảm nhận và trải nghiệm đều là kết quả của sự tụ hợp và tan rã của các yếu tố nhân duyên.
Đối diện nỗi sợ để thoát khổ
Phật giáo thường thứcCâu hỏi: Khi đến giờ phút cuối đời, con không biết mình sẽ đau đớn đến mức nào. Nếu tâm không chuẩn bị, chắc sẽ rất khổ phải không thưa Thầy?
Nguyện như thế nào vào ngày giỗ ông bà cho hợp với lẽ đạo?
Phật giáo thường thứcHỏi: Vào những ngày kỵ giỗ ông bà cha mẹ, chúng con phải nguyện như thế nào cho hợp với lẽ đạo. Kính xin Hòa thượng chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Xem thêm














