Thệ nguyện và nhân quả (Phần 1)
Lý Nhân Quả dẫn giải dễ hiểu như vậy, nhưng quán cho sâu và hành trì cho miên mật thì ít ai thực hiện được viên mãn, do đó nảy sinh ra trường hợp nghi ngờ, thậm chí không còn vững lòng tin vào lý Nhân Quả, vốn là một yếu chỉ trong Phật pháp.
Gieo nhân nào, gặt quả ấy. Trồng dưa hái dưa, trồng đậu hái đậu. Đây là lời dạy về lý Nhân Quả rất quen thuộc, phổ biến rộng rãi Phật tử thuộc mọi căn cơ trình độ đều biết. Đây là lẽ tự nhiên ai cũng có thể chứng nghiệm được dễ dàng, trồng cây sung chát không bao giờ được ăn trái hồng thơm cũng như trồng cây cam ngọt không bao giờ lại có trái chanh chua. Sự ẩn dụ đã trình bày chính xác lý nhân quả bất biến, không bao giờ sai khác tùy thuộc vào thời gian và không gian.
Lý Nhân Quả dẫn giải dễ hiểu như vậy, nhưng quán cho sâu và hành trì cho miên mật thì ít ai thực hiện được viên mãn, do đó nảy sinh ra trường hợp nghi ngờ, thậm chí không còn vững lòng tin vào lý Nhân Quả, vốn là một yếu chỉ trong Phật pháp. Trong giới hạn một bài viết, ở đây chỉ nêu lên một vài nghi vấn thường gặp trong lúc hành trì Chánh pháp. Nảy sanh ra nghi ngờ là lẽ tất yếu đối với người thiện học khéo tu. Nghi ngờ rồi không giải được, sanh ra lơ là thoái chí, đó là trường hợp thiếu tín lực và tinh tấn lực. Nghi ngờ rồi nhất tâm tín giải là cái giá phải trả để đạt tới chứng ngộ đạo pháp cao thâm. Không một chút nghi ngờ thì rất dễ lầm đường lạc lối trên lộ trình dẫn đến Giác Ngộ.
1. Nghiệp lực và nguyện lực
Cuộc sống của người con Phật nhất tâm hành trì Chánh pháp được định hướng và dẫn dắt là do hai sức mạnh tâm linh, đó là nghiệp lực và nguyện lực. Trong khi phàm nhân vô minh chưa khởi tín tâm vào Chánh pháp thì cuộc sống chỉ do tác động của một lực duy nhất, đó là nghiệp lực dù là Nghiệp lành hay Nghiệp dữ. Sự phân biệt chánh yếu giữa Nghiệp lực và Nguyện lực như sau:
Thế vận hành
Hai lực này đều do Tâm phát xuất nhưng khác nhau ở cái thế vận hành: Nghiệp lực ở thế thụ động. Tâm của hành giả đóng vai trò ứng phó khi thọ nghiệp, dù là Nghiệp lành khi hưởng Quả Phúc hay Nghiệp dữ khi trả Quả Tội; Nguyện lực ở thế chủ động, Tâm của hành giả đóng vai trò tự quyết khi tạo nghiệp, bao giờ cũng là Thiện Nghiệp một khi đã nhất tâm hành trì Chánh pháp.
Đừng chối bỏ nhân quả để tạo thêm nghiệp
Tánh cách vận hành
Hai lực này đều tác động vào cuộc sống của hành giả nhưng khác nhau ở tính cách vận hành: Nghiệp lực thay đổi vô thường, tùy theo Nhân đã gieo lành hay dữ, tăng giảm lúc mạnh lúc yếu; Nguyện lực thường hằng bất biến kể từ thời điểm phát nguyện. Thời điểm này hiển lộ khi hành giả đã đạt tới chỗ có một nhân sanh quan rõ ràng và nhất định, không thay đổi nữa giống như người đi xa đã có một bản đồ cầm trong tay trước khi khởi hành, hành giả chỉ còn một việc theo đúng chỉ dẫn của bản đồ để đi tới đích. Ví dụ: Phật tử phát nguyện Quy y Tam Bảo, hành trì Ngũ Giới.
Thời điểm khởi động và chấm dứt vận hành
Hai lực này khác nhau ở thời điểm khởi động và chấm dứt vận hành:
Nghiệp lực bắt đầu từ khi thọ mạng chúng sanh chịu luân chuyển theo vòng Luân Hồi do lý Nhân Quả dẫn dắt và chấm dứt khi chúng sanh giải thoát khỏi vòng Luân Hồi. Nói cách khác, Nghiệp lực có thời gian vận hành liên tục từ nhiều tiền kiếp, trải qua hiện kiếp và tiếp tục ở những hậu kiếp. Con người đã mang sẵn Nghiệp từ khi đầu thai vào bụng mẹ và mang theo Nghiệp sang kiếp kế tiếp khi chấm dứt cuộc sống thế gian.
Nguyện lực bắt đầu tác động từ khi phát nguyện, không lệ thuộc vào kiếp sống là tiền kiếp, hiện kiếp hay hậu kiếp. Hành giả đang thọ nghiệp thế gian phát nguyện ở hiện kiếp làm người, chư Phật phát nguyện từ những tiền kiếp trước khi thị hiện thành hóa thân ở thế gian để cứu độ chúng sanh. Ví dụ Người mới tu phát nguyện giữ giới và ăn chay.
Trường hợp Đức Thích Ca khi mới xuất gia có phát nguyện bốn điều:
- Nguyện tế độ chúng sanh khỏi mọi sự khốn ách.
- Nguyện trừ chúng sanh khỏi mọi hoặc chướng.
- Nguyện dứt đoạn chúng sanh khỏi mọi tà kiến.
- Nguyện độ chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi khổ não.
Người hành trì pháp môn niệm Phật đều biết đến Đại Nguyện gồm có 48 điều của Đức A-di-đà. Đây là những trường hợp Biệt Nguyện, cũng gọi là Bốn Nguyện của riêng từng vị quyết tâm thành Phật, khác với Tổng Nguyện là trường hợp nguyện chung của người tu hành.
Ý thức vận hành
Hai lực này khác nhau ở ý thức vận hành: Nghiệp lực vận hành không lệ thuộc vào ý thức của hành giả, dù hành giả có nhận thức ra hay không nhận thức ra; Nguyện lực vận hành trong khi hành giả có ý thức về mọi sự quyết định khởi động, theo dõi và chiêm nghiệm tiến trình của Nguyện lực. Nói cách khác, chúng sanh vô minh thường không biết đển sự vận hành của Nghiệp lực, từ khi gieo Nhân đến lúc thọ Quả, dù là Nghiệp lành hay Nghiệp dữ, thường tin đó là May Rủi, Trời thương hay Quỷ ám. Trong khi đó, chỉ người tỉnh thức mới nhận định ra sự vận hành của Nguyện lực đang chuyển hóa tâm thức của chính mình. (còn tiếp)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứu 09:40 15/11/2024Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu 09:45 03/11/2024Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...
Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo
Nghiên cứu 09:45 19/10/2024Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.
Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội
Nghiên cứu 09:30 06/10/2024Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.
Xem thêm