Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 05/03/2019, 06:59 AM

Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô

Người ta thường cho rằng Phật giáo được truyền vào Trung Hoa qua vùng Trung Á, nhưng còn có một con đường khác mà ít người biết tới hơn, đó là con đường từ Giao Chỉ tới Đông Ngô.

>>Chân Dung Từ Bi

Bài liên quan

Bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên, Phật giáo dần được truyền nhập vào Trung Hoa một cách rời rạc không hoàn chỉnh do sự cách biệt về ngôn ngữ. Sang đến thế kỷ thứ 3, các nhà dịch thuật mới bắt đầu xuất hiện.

Vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6, có rất nhiều cái tên nổi bật và quen thuộc của Phật giáo xuất hiện ở Trung Hoa, như Bồ Đề Đạt Ma, Đường Tam Tạng. Tuy nhiên, trước các ông, Phật giáo nơi đây đã chứng kiến sự đóng góp của nhiều cao tăng khác từ tận thế kỷ thứ 3, thứ 4. Và một người nổi bật trong số đó chính là Thiền sư Khương Tăng Hội, một vị thiền sư sinh ra ở Giao Chỉ, có ảnh hưởng lớn tới cả Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Đông Ngô.

Theo cuốn “Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát thì cha Khương Tăng Hội là người nước Khương Cư (Sogdiana) nằm giữa hai sông Amu Darya và Syr Darya (ngày nay nằm ở vùng biên giới Afganistan, Uzbekistan và Tajikistan) đến Giao Châu buôn bán, còn mẹ ông là người Việt. Cũng có nguồn cho rằng cha mẹ ông đều là người nước Khương Cư.

Tranh vẽ Thiền sư Khương Tăng Hội

Tranh vẽ Thiền sư Khương Tăng Hội

Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra và lớn lên ở Giao Chỉ. Đến năm ông lên 10 tuổi thì cha mẹ qua đời. Ông liền xuất gia và chuyên tâm tu luyện. Trong quá trình đó, Thiền sư Khương Tăng Hội cũng xây dựng đạo tràng, huấn luyện đồ chúng, phiên dịch kinh sách. Tương truyền rằng trung tâm của Phật giáo Giao Chỉ thời bấy giờ được lập ở chùa Diên Ứng, còn gọi là chùa Dâu hay chùa Pháp Vân, ở thủ phủ Luy Lâu (Bắc Ninh ngày nay).

Do giỏi cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hán, Thiền sư Khương Tăng Hội quyết định qua đất Trung Hoa truyền đạo. Năm 247, ông đến Kiến Nghiệp, là kinh đô của Đông Ngô (nay là Nam Kinh, Trung Quốc), tiếng tăm vang khắp chốn.

Là một bậc siêu phàm, chẳng bao lâu tài đức của Thiền sư Khương Tăng Hội vang danh khắp chốn. Bấy giờ Giao Chỉ lệ thuộc Đông Ngô. Ngô Tôn Quyền thấy uy danh Ngài lừng lẫy, được dân chúng hết lòng kính trọng. Ông ta lo sợ Ngài sẽ thu phục nhân tâm, tụ họp anh hùng hào kiệt nổi loạn, chống lại Đông Ngô. Tôn Quyền vốn không tin Phật Pháp, nên gọi Khương Tăng Hội tới chất vấn.

Tranh vẽ Tôn Quyền. (Tranh qua Wikipedia)

Tranh vẽ Tôn Quyền. (Tranh qua Wikipedia)

Bài liên quan

Để chứng tỏ sự màu nhiệm của Phật Pháp, Thiền sư Khương Tăng Hội đã xin vua thời gian 7 ngày để cầu xá lợi. Tôn Quyền đồng ý. Thiền sư Khương Tăng Hội cầu 7 ngày không được, lại xin thêm 7 ngày nữa, vua cũng chấp thuận. Nhưng Phật Pháp vẫn không hiển linh. Khi vua chuẩn bị giáng tội, thì Thiền sư Khương Tăng Hội lại tiếp tục cầu 7 ngày. Và lần này, ông đã thực sự cầu được xá lợi.

Tôn Quyền lấy làm kỳ lạ trước xá lợi phát sáng thần kỳ, bèn sai người đem đi thử. Kết quả xá lợi lửa đốt không cháy, búa đập không vỡ, bất khả xâm phạm. Bấy giờ Tôn Quyền mới tin, thành tâm nghe Thiền sư Khương Tăng Hội thuyết pháp. Ông cũng cho phép Thiền sư Khương Tăng Hội được xây dựng đạo tràng, từ đó Phật giáo phát triển tại Đông Ngô.

Cũng tương truyền rằng, xá lợi mà Thiền sư Khương Tăng Hội cầu được là xá lợi hiển linh đầu tiên xuất hiện trên vùng đất Trung Hoa.

Trong tác phẩm “Thiền sư Khương Tăng Hội”, thầy Nhất Hạnh có viết: “Sự nghiệp của Thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của thầy mà ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu Việt Nam và tại trung tâm Kiến Nghiệp Trung Quốc ngày xưa. Tư tưởng thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức. Tuy nhiên, thiền pháp của thiền sư Khương Tăng Hội rất thực tiễn, không hề để thiền giả bay bổng trong vòm trời lý thuyết. Căn bản của thiền pháp này vẫn là sự thực tập hơi thở ý thức và pháp quán chiếu về bốn lĩnh vực hiện hữu, gọi là tứ niệm xứ và các pháp quán tưởng căn bản đã được nêu ra trong các thiền kinh nguyên thủy.

Nhân cách của Thiền sư Tăng Hội là một nhân cách vĩ đại. Ta chỉ cần đọc bài kệ mà Tôn Xước, một người trí thức trong hoàng gia Đông Ngô đề lên tranh tượng của Thiền sư sau đây thì đủ thấy được nhân cách ấy:

Lặng lẽ, một mình,

Đó là khí chất

Tâm không bận bịu

Tình không vướng mắc

Đêm đen soi đường

Lay người thức giấc

Vượt cao, đi xa

Thoát ngoài cõi tục.”

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Ni trưởng Diệu Không và một đời bát kỉnh thị y

Chân dung từ bi 16:39 23/10/2024

Ni trưởng Thích nữ Diệu Không là một trong những bậc danh Ni thời hiện đại của Phật giáo Việt Nam. Tuy xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, nhưng Sư trưởng đã một lòng xả tục cầu chơn, xuất gia đầu Phật, hành Bồ-tát đạo.

Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn và sự nghiệp “trồng người”

Chân dung từ bi 09:20 23/10/2024

Vốn là một bậc thầy mô phạm của nhiều thế hệ Ni lưu suốt những năm tháng dài tại thế, Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn (1919-2003) được biết đến như một ngôi sao sáng của Ni bộ Bắc Tông giữa thế kỷ XX.

Giáo sư Angraj Chaudhary: Ngài Thích Minh Châu mà tôi biết

Chân dung từ bi 10:45 22/10/2024

Thư của Giáo sư Angraj Chaudhary được dịch và đọc tại Hội thảo về Trưởng lão HT. Thích Minh Châu (1918-2012) vào ngày 20/10/24 tại Pháp viện Minh Đăng Quang, nhân dịp Lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (1989-2024) vào ngày 19-20/10/2024.

Nhớ về Hòa thượng Thích Minh Châu - Đường Tăng của Việt Nam

Chân dung từ bi 08:05 19/10/2024

Những ngày này tôi dành trọn thời gian để đọc lại, tư duy, suy ngẫm, trải nghiệm một số bản Kinh trong Nikaya gồm Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ.

Xem thêm