Thực giải 30 bài tụng Duy thức (14)

Con người sống trên đời chỉ cần nhận diện rõ tâm thiện, tâm ác khi chúng sinh khởi, biết tùy thiện chuyển ác đã có thể trở thành bậc hiền nhân sống có ích cho mình, cho người.

Thực giải 30 bài tụng Duy thức (14) 1

Thực giải 30 bài tụng Duy thức (13)

Phiên âm Hán Việt:

Phóng Dật cập Thất Niệm,

Tán Loạn, Bất Chánh Tri.

Bất Định vị Hối, Miên,

Tầm, Tư, nhị các nhị.

Việt dịch: 

Phóng dật cùng Thất niệm

Tán loạn, Bất chánh tri

Bất định là Hối, Miên

Tầm, Tư hai thứ hai

Thực giải:

Những trạng thái tâm tiêu cực như buông lung và mất chánh niệm, rối loạn, không hiểu biết chân chánh. Tâm Sở không nhất định là thiện hay ác như hối hận, ngủ nghê, tìm cầu, xét đoán.

Trong Tâm Sở Bất Định có hai loại: loại thứ nhất có hai tâm sở: hối hận và ngủ nghỉ; loại thứ hai có hai tâm sở: tìm cầu và xét đoán chính chắn. Mỗi tâm sở một trong hai loại có hai thứ: thiện và ác.

Bài này mô tả, trình bày tiếp một cách chi tiết 4 trạng thái tâm tiêu cực bất thiện là Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri và 4 trạng thái tâm Bất định ( không hẳn là thiện hay ác) là Hối, Miên, Tầm, Tư

17, Phóng Dật là tùy tiện, buông lung, phóng túng. Tâm sở này khiến con người buông lung vọng niệm, không thích bị bị bó buộc trong khuôn khổ, luôn phóng túng chạy theo ngũ dục của thế gian.

18, Thất Niệm là mất chánh niệm, không có tỉnh giác nghĩa là hay quên lãng. Trạng thái tâm sở này thường khiến con người hay quên lãng những việc quá khứ và không ghi nhớ những việc cần phải làm trong hiện tại. Trong tu tập là bị vọng niệm chi phối

19, Tán Loạn là rối loạn, không tập trung nghĩa là tâm trí không tập trung an định một chỗ. Tâm sở này thường khiến con người phân tán tư tưởng, suy nghĩ lung tung, nhớ nghĩ điều này, việc kia liên tục không ngừng nghỉ

20, Bất Chánh Tri là không hiểu biết đúng như thật, nghĩa là tâm sở này thúc đẩy con người tin tưởng chạy theo những tà thuyết mê tín dị đoan, những học thuyết tư tưởng không phù hợp với chân lý sự thật.

Tâm sở Bất Định nghĩa là những Tâm Sở không nhất định là thiện hay ác. Những Tâm Sở này khi tương tác với các Tâm Sở Thiện để chận đứng những điều tội ác không cho phát sanh thì được gọi là thiện, và ngược lại thì gọi là ác, cho nên mới có tên gọi là Bất Định. Có 4 loại

4 tâm sở Bất Định: Hối, Miên, Tầm và Tư. Trong bốn tâm sở này lại chia làm hai loai Hối Miên và Tầm Tư; trong hai loại, mỗi tâm sở cũng có hai thứ thiện và ác, nghĩa là Hối cũng hai: thiện và ác; Miên cũng có hai: thiện và ác; Tầm cũng có hai: thiện và ác; Tư cũng có thiện và ác.

1, Hối là hối hận ăn năn việc đã làm; tâm sở này chia làm hai loại:: hối thiện và hối ác

Hối thiện là biết ăn năn hối hận những việc xấu ác đã lỡ gây tạo, giờ đây biết sai nên hối hận, đó là hối thiện.

Hối ác là những việc lành đã làm, giờ đây ăn năn, hối hận. Ví như đã bố thí giúp đỡ tiền của cho người nghèo khổ rồi tiếc tiền của mà hối hận.

2, Miên là ngủ gà ngủ gật. Trạng thái tâm sở này thường khiến thân tâm con người trở nên mờ tối,mệt mỏi, uể oải, thích ngủ buồn ngủ, làm trở ngại cho việc tu tập thiền định, học kinh, tụng kinh. Miên chia thành hai loại

Miên Thiện là ngủ mơ màng điều thiện, hay khi nghe đến những điều ác, những tà thuyết bất minh hay bị buồn ngủ, ngủ gà ngủ gật

Miên Ác là ngủ mơ màng điều ác, cảnh ác hoặc khi nghe tụng kinh, giảng pháp, nghe những điều thiện thì hay rơi vào trạng thái ngủ gà ngủ gật,

3, Tầm là hướng tâm tìm kiếm. Trạng thái tâm sở này thường khiến con người bận tâm tìm kiếm những hình ảnh, đối tượng những sự kiện trong đời sống hàng ngày. Tầm chia làm hai loại:

Tầm Thiện là hướng tới tìm kiếm những hoàn cảnh, môi trường, người thiện, điều thiện như đến thiền viện, thư viện, giảng đường gặp chư Tăng, thầy cô giáo...

Tầm Á là hướng tâm tìm kiếm sinh hoạt với những điều ác, người ác, cảnh ác như quán nhậu, sòng bài, cá độ, vũ trường...

4, Tư là chín chắn xét đoán. Trạng thái tâm sở này thường khiến con người để tâm xét đoán, phân tích kỹ lưỡng những đối tượng, con người, sự việc để nhận định chính xác không sai lầm. Tư cũng phần thành hai loại:

Tư Thiện là để tâm suy tư xét đoán, sinh hoạt với những đối tượng, con người, điều thiện, cảnh thiện.

Tư Ác là để tâm suy tư xét đoán, sinh hoạt với những điều ác, cảnh ác, người ác

Với các tâm sở Bất Định, tức không nhất định là thiện hay ác này thì ở trong môi trường, hoàn cảnh nào sẽ theo hướng ấy.

Con người sống trên đời chỉ cần nhận diện rõ tâm thiện, tâm ác khi chúng sinh khởi, biết tùy thiện chuyển ác đã có thể trở thành bậc hiền nhân sống có ích cho mình, cho người.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Thiền tông Việt Nam qua Thiền sư Cứu Chỉ

Nghiên cứu 14:37 19/11/2025

Sư họ Đàm, làng Phù Đàm, phủ Châu Minh (tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho sách Phật đều đọc. Một hôm cầm sách tự than: ‘Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở thế tục chẳng phải là pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có không, có thể dứt sanh tử; nhưng phải siêng tu giữ giới, cầu thiện tri thức ấn chứng mới được’.

Pháp môn Tịnh độ ở Nam bộ Việt Nam

Nghiên cứu 15:00 13/11/2025

Do bối cảnh địa-lịch sử và địa-văn hóa đặc thù ở Nam bộ Việt Nam, đã xuất hiện khá nhiều hội đoàn, đạo giáo có thực hành pháp môn Tịnh độ so với các vùng miền khác trong cả nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tông phái Tịnh độ riêng biệt.

Tâm giải thoát là tiêu chuẩn duy nhất xác chứng một vị A-la-hán

Nghiên cứu 08:30 13/11/2025

Trong suốt lịch sử Phật giáo, hình ảnh bậc A-la-hán luôn là biểu tượng tối thượng của con đường giải thoát, là đích đến của Giới Định Tuệ, là cánh cửa mở ra Niết-bàn không còn tái sinh. Nhưng để hiểu đúng về A-la-hán, người học Phật phải vượt qua mọi lớp khái niệm vay mượn, mọi tưởng tri thần thoại, để trở về với chân nghĩa mà Đức Thế Tôn từng dạy trong các kinh tạng nguyên thủy.

Sự ra đời và hoạt động của Giáo hội Lục hòa tăng

Nghiên cứu 13:56 08/11/2025

Sự ra đời của Giáo hội lục hoà tăng nhằm “duy trì nền tảng cổ truyền và thực hiện nền giáo dục Phật lý mà nghìn xưa đức Phật đã dạy.

Xem thêm