Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ bảy, 01/08/2020, 11:16 AM

Nghi thức hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm

Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng ta vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau.

Sự hóa hiện của đức Quán Thế Âm Bồ Tát để ban vui, cứu khổ

Lời giới thiệu         

Chúng tôi được phúc duyên tu theo Hòa thượng Trúc Lâm với phương pháp biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, một dòng thiền hiện đại của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, dưới sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa thượng trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu. Sau một thời gian tu học, chúng tôi nhận thấy kinh là lời Phật dạy, thiền là hành thẳng nơi tâm. Qua lời Phật dạy phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và thiền không hai, không khác. Đây là bài kinh nói về Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà, giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.

Cho nên chúng tôi biên soạn lại và mạnh dạn đặt tên: Kinh Hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm và nương theo đó để hướng dẫn áp dụng hành trì, nếu ai có nhân duyên với Bồ tát. Trong phần biên soạn, chúng tôi giảm bớt phần trùng tụng nhưng vẫn giữ được yếu chỉ của kinh. Thời gian tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, chúng tôi có nhân duyên lớn hướng dẫn hoằng pháp và từ thiện, cho người bất hạnh tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương. Thực hiện chương trình kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống tài trợ học bổng cho học sinh giỏi và giúp đỡ học sinh khó khăn tại Trường trung tiểu học Xã Thạnh An Huyện Thạnh Hoá Tỉnh Long An. Hoằng pháp và từ thiện các chùa vùng sâu vùng xa để giúp đỡ người bất hạnh nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn.

Chủ trương của chúng tôi là hoằng pháp và từ thiện, như đôi cánh chim tung bay giữa bầu trời trí tuệ và từ bi, nhờ phương tiện giúp đỡ vật chất để xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh. Chúng tôi còn chia sẻ một số kinh nghiệm để họ có đủ niềm tin trong cuộc sống, tin sâu nhân quả và vươn lên làm mới lại chính mình. Bởi vì người bất hạnh đa số không học hành tới nơi, tới chốn, cuộc sống bấp bênh nên sự học hỏi, hiểu biết, nhận thức  không được sáng suốt. Do đó dễ oán trời trách đất đổ thừa tại bị thì là…trách móc xã hội sau quá bất công, thù ghét người thân bạn bè sau không giúp đỡ, những người này họ đáng thương hơn là đáng ghét.

Để có cơ hội giúp đỡ hướng họ đi đến con đường sáng, chúng tôi phương tiện hướng dẫn phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, giúp cho mọi người có đủ niềm tin, cố gắng vươn lên vượt qua nỗi khổ niềm đau, làm mới lại chính mình để sống an vui và hạnh phúc. Phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ tát đơn giản và dễ dàng, nhờ thần lực nhiệm mầu Quán Thế Âm luôn xem xét lắng nghe tiếng kêu cứu khổ để giúp mọi người được tai qua nạn khỏi. Nếu nói về chùa và tín ngưỡng của người Việt Nam, thì hầu như hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm đã ăn sâu và thấm nhuần trong lòng mọi người. Từ khắp ba miền đất nước chùa nào cũng đều có thờ tượng Bồ tát Quán Thế Âm, thậm chí tại nhà mọi người đều có thờ riêng. Rõ ràng niềm tin vào Bồ tát Quán Thế Âm đã ăn sâu vào tàng thức của người dân nước Việt.

Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên 2000 năm, trải qua rất nhiều thời đại vàng son, nhất là đời Lý, đời Trần, nhờ chủ trương đưa Phật giáo vào áp dụng cho toàn dân, nên mọi người sống có ý thức và trách nhiệm, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau do đó mà luôn sống trong bình yên, hạnh phúc. Song bên cạnh đó không biết bao nhiêu cuộc thăng trầm, thịnh suy, tùy theo vận mệnh của đất nước. Nhưng niềm tin của người dân nước Việt đối với Bồ tát Quán Thế Âm không bao giờ bị mai một. Một niềm tin dựa trên thần lực nhiệm mầu của Bồ tát Quán Thế Âm, đi vào đời để cứu độ chúng sinh như “ có cầu tất ứng.” Bồ tát Quán Thế Âm sở dĩ được tôn xưng với danh hiệu không thể nghĩ bàn, nhờ ngài luôn ban bố niềm vui đến cho mọi người và sẵn sàng giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua sợ hãi khổ đau, đang chịu nhiều bất hạnh trong đời. Như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bị yêu tinh tà ma hảm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến bị nạn trộm cướp, bị vua quan chiếm đoạt và nghèo đói thiếu thốn khó khăn. Bồ tát Quán Thế Âm là điểm tựa tinh thần vững chắc để mọi người bắt chước và noi theo, từ một con người phàm phu tục tử có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách trì niệm hồng danh Ngài.

Điểm đặc biệt để mọi người lưu ý, bài kinh này mang ẩn dụ rất cao nếu chúng ta không có trí tuệ soi sáng, dễ lầm tưởng Ngài có thể ban phước giáng họa và “cầu gì được nấy”. Thái độ cầu nguyện van xin tha lực của người tín ngưỡng, không phải là nội dung chính mà Phật muốn chỉ dạy hướng dẫn. Ở đây, cốt lõi của bài kinh đức Phật nói rõ con người do tưởng quá nhiều nên mới sinh ra đau khổ. Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sinh, vì có tưởng nên có khổ. Muốn hết đau khổ, dứt bặt sự tưởng, tưởng hết mọi khổ đau đều hết. Nếu chúng ta kiên trì bền bỉ trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, thì chắc chắn hết khổ.

Quán Thế Âm còn có nghĩa Quán Tự Tại, vì sao? Vì ngài soi thấy năm uẩn đều không, có nghĩa là thân tứ đại này do bốn chất đất nước gió lửa hoà hợp lại mà thành, cho nên bản chất của nó là không thật ta, vì phải già, bệnh chết, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách.

Quán Thế Âm còn có nghĩa Quán Tự Tại, vì sao? Vì ngài soi thấy năm uẩn đều không, có nghĩa là thân tứ đại này do bốn chất đất nước gió lửa hoà hợp lại mà thành, cho nên bản chất của nó là không thật ta, vì phải già, bệnh chết, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách.

Quán Thế Âm còn có nghĩa Quán Tự Tại, vì sao? Vì ngài soi thấy năm uẩn đều không, có nghĩa là thân tứ đại này do bốn chất đất nước gió lửa hoà hợp lại mà thành, cho nên bản chất của nó là không thật ta, vì phải già, bệnh chết, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy sáu căn là nhân của luân hồi sinh tử và sáu căn cũng là nhân của giải thoát. Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong rồi, Phật dạy Bồ tát Văn thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng Bồ tát chọn lựa “nhĩ căn” là viên thông hơn cả. Đây là lối tu: “Phản văn văn tự tánh” của Bồ tát Quán Thế Âm. Chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ xưa đến giờ chúng ta chạy theo âm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tánh nghe thường hằng của mình. Bây giờ biết tu rồi, chỉ nhớ mình có tánh biết sáng suốt, nghe tất cả mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào. Cho nên Bồ tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tánh nghe của mình, thành tựu tánh nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.

Nên kinh nói, trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, công đức thù thắng hơn tất cả. Vậy, chúng ta trì niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tánh nghe chân thật của mình, nên không bị âm thanh bên ngoài chi phối, do đó hằng sống với tánh nghe. Trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm là phương pháp tu tập quán chiếu cuộc đời, để chúng ta thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình, vượt qua các khổ đau đang có mặt.

Mục đích chính của kinh là độ thoát tất cả chúng sinh, trừ bẩy tai nạn trong đời và thực hiện hai sự cầu vi diệu, mà trong kinh nói: “cầu con trai thì được con trai, cầu con gái thì được con gái. ” Vì bài kinh mang ẩn dụ cao siêu, chỉ cần người tin tưởng niệm danh hiệu Bồ tát là đã có lợi lạc ngay tại đây và bây giờ. Huống hồ là chúng ta nhất tâm chí thành “niệm” tinh chuyên miên mật không gián đoạn, thì kết quả sẽ được y như nguyện.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi cầu con trai là cầu được trí tuệ rộng lớn, vì con trai tượng trưng cho lý trí mà muốn có trí tuệ thì phải tu tập thiền định, chứ không thể nào cầu nguyện van xin suông mà được. Đạo Phật là nền tảng của nhân quả, muốn được quả tốt thì phải gieo nhân tốt, nếu chúng ta không thành tâm khẩn thiết thì làm sau có cảm ứng giao thoa. Cầu con gái là cầu được phước đức, mà phụ nữ tượng trưng cho tình cảm dạt dào, muốn giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau bất hạnh nghèo đói, thiếu thốn khó khăn, Bồ tát phải có nhiều tiền của, nhờ vậy mới đủ sức chia sẻ nỗi khổ niềm đau cho tất cả mọi người. Khi giúp chúng sinh mà không có trí tuệ rộng lớn thì còn thấy mình là kẻ ban ơn, người là kẻ thọ ơn và vật để thọ thí. Nếu thấy như vậy thì sinh phiền muộn khổ đau, chấp trước dính mắc và dễ dàng thối Bồ đề tâm. Do đó Bồ tát muốn vào đời để độ sinh thì phải Quán Tự Tại mới được.

Ý nghĩa danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát

Ngoài ra kinh này còn nói lên tình thương bao la rộng lớn của một vị Bồ tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả, với cách thức độ sinh đa dạng của 33 ứng thân khác nhau. Bồ tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua hay tể tướng cho đến kẻ bần cùng, chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ tát ứng hiện điều kiện đó, để cho phù hợp với tâm tư nguyện vọng của mọi người. Hay nói rõ hơn, Bồ tát đi vào đời là tùy bệnh cho thuốc, do đó người hành đạo muốn độ sinh có hiệu quả phải biết căn cơ và sở thích của từng chúng sinh. Chúng tôi xin chân thành nói rộng pháp tu Bồ tát Quán Thế Âm theo nhiều cấp độ như sau: Thứ nhất là trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm.

Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Phương pháp niệm danh hiệu Bồ tát, giống như niệm Phật A Di Đà cũng lấy tín, hạnh, nguyện, làm tông chỉ. Nhưng niệm Bồ tát Quán Thế Âm khác ở chỗ là không cầu về cõi Tây Phương Cực lạc, mà phát nguyện đi vào đời để cứu khổ chúng sinh, luôn xem xét lắng nghe, sẵn sàng chia sẻ tình yêu thương chân thật, nhằm xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh giúp mọi người chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.

Giải thích từ ngữ: Nam mô có nghĩa là cung kính, tôn trọng. Chúng ta cung kính tôn trọng niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, để bắt chước tấm lòng vị tha từ bi cứu khổ chúng sinh lâu dài.

Đại từ có nghĩa là mở rộng tấm lòng, đem niềm vui tình thương vô lượng vô biên, đến với tất cả chúng sinh mà không phân biệt thân sơ. Bình đẳng đối với tất cả mọi người dù đó là kẻ thù, nhưng khi thấy họ gặp bất hạnh khổ đau, Bồ tát vẫn một lòng thương xót dang tay giúp đỡ mà không một niệm oán trách.

Đại bi có nghĩa là mở rộng tấm lòng sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau đối với người cơ nhỡ bất hạnh. Chỉ biết một bề giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên, khi có điều kiện.

Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Phương pháp niệm danh hiệu Bồ tát, giống như niệm Phật A Di Đà cũng lấy tín, hạnh, nguyện, làm tông chỉ.

Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Phương pháp niệm danh hiệu Bồ tát, giống như niệm Phật A Di Đà cũng lấy tín, hạnh, nguyện, làm tông chỉ.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng ta vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau. Quán chiếu cuộc đời thực tế có 5 cách:

Một là quán chân thật, hai là quán thanh tịnh, ba là quán trí tuệ rộng lớn, bốn là quán tình thương, năm là quán cứu khổ. Mỗi hành giả nương vào năm pháp quán này, mà vươn lên làm mới lại chính mình vượt thoát mọi khổ đau ràng buộc trong cuộc đời.

Quán chân thật để thấy rõ bản chất cuộc đời là một dòng chuyển biến, theo nguyên lý duyên khởi, vô ngã, vô thường.

“Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. ”

Tất cả mọi hiện tượng sự vật không có thực thể cố định, nhờ quán chiếu như vậy nên chúng ta dễ dàng buông xả, không chấp trước dính mắc về thân tâm, ta, người, hoàn cảnh. Quán thanh tịnh để thấy rõ bản chất của các pháp không nhơ sạch, đúng sai, tốt xấu, nhờ vậy chúng ta dứt tưởng nên hành giả sống lạc quan không dính mắc hai bên.

Quán trí tuệ rộng lớn, là pháp quán cần yếu của mỗi hành giả. Không có trí tuệ chúng ta dễ rơi vào si mê lầm lạc, muốn có trí tuệ mỗi hành giả phải biết thiền định để loại trừ rác rưởi tà niệm. Cho nên đất tâm nếu không, thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Hành giả khi có trí tuệ thì thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách nên gọi là Quán Tự Tại.

Hai pháp quán sau gộp chung lại gọi là quán từ bi, tâm từ bi có thể phát xuất từ tấm lòng vị tha của mỗi con người. Nhờ quán từ bi mỗi hành giả thấu suốt nguyên lý duyên khởi, vô ngã tính không thực thể của các pháp. Nhưng có tính biết sáng suốt hằng tri, hằng giác nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Do biết rõ thật giả phân minh, nên Bồ tát đi vào đời luôn đem niềm vui, tình thương chân thật bình đẳng với tất cả chúng sinh, dù đó là người thù. Bồ tát sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả chúng sinh. Nhờ Bồ tát thấu rõ chân lý cuộc đời nên không thấy mình là kẻ ban ơn, người nhận thí và kẻ thọ ơn, nên bình đẳng kết nối yêu thương mở rộng tấm lòng không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Tín ngưỡng Bồ Tát Quán Thế Âm trong văn học và nghệ thuật

Người tu niệm danh hiệu Bồ tát thì phải lấy tín, hạnh, nguyện làm nền tảng, nhưng tín hạnh nguyện của người niệm Quán Thế Âm khác với niệm Phật cầu vãng sinh.

Tín có nghĩa là tin thần lực nhiệm mầu của Bồ tát Quán Thế Âm, có đủ khả năng giúp chúng sinh chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, đạt được kết quả như ý muốn. Nhưng tại sao có người nhờ niệm Quán Thế Âm mà vượt qua hoạn nạn tai ương, cũng có người khi niệm chẳng thấy linh ứng và hiệu nghiệm tại sao? Người phát tâm trì niệm danh hiệu Bồ tát điều đầu tiên, cần phải có lòng tin sâu sắc với Bồ tát luôn cung kính chí thành, niệm tinh chuyên ròng rặc. Ai đặt hết niềm tin tưởng và thành khẩn cầu sự cứu độ của Bồ tát Quán Thế Âm thì được cảm ứng không thể nghĩ bàn “có cầu tất ứng”.

Hạnh có nghĩa là thực hành niệm danh hiệu Bồ tát một cách tinh chuyên, ròng rặc, miên mật, thường xuyên mỗi ngày không lơ là giải đãi. Chúng ta cung kính, chí thành niệm danh hiệu Bồ tát trong mọi hoàn cảnh, trong bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi mà không bị ngoại cảnh chi phối làm thất niệm. Cuộc sống thế gian vốn nhiều đau khổ bất an, tham lam, thù hận đố kỵ, tranh chấp xung đột, sợ hãi và sẵn sàng triệt tiêu lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Nếu chúng ta không thường xuyên cung kính niệm Bồ tát, chờ đến khi gặp hoạn nạn mới khẩn cầu thì e rằng sẽ không có kết quả như nguyện. Vì lúc này tinh thần không sáng suốt khủng hoảng, sợ hãi, mất bình tĩnh, thì làm sao đủ khả năng cầu sự gia hộ của Bồ tát có hiệu quả được.

Nguyện ở đây có nghĩa là chí nguyện độ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài. Bồ tát sau khi thành tựu đạo quả, nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ với tất cả chúng sinh. Và chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thế gian lúc nào cũng đầy dẫy khổ đau bất hạnh, như đang sống trong nhà lửa, chịu sự nóng bức của phiền não trong từng phút giây. Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi gắn bó với nhau, bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, nhưng không thấy ai là người thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Bồ tát có nghĩa là người giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần chưa được viên mãn như Phật. Nhưng vì thấy chúng sinh ở cõi Ta Bà này vui ít, khổ nhiều bị phiền não khổ đau chi phối, nên động lòng thương xót đi vào đời lấy tứ nhiếp pháp để ban vui cứu khổ theo đúng tâm tư nguyện vọng của chúng sinh. Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.

Bồ tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham. Bồ tát sẵn sàng đem tài sản của cải hoặc sức lực của mình bố thí giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Nhờ sự giúp đỡ tận tình nên Bồ tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người mến thương, do đó dễ nhiếp phục họ bằng bố thí chia sẻ.

Thứ hai là Bồ tát phải dùng lời ngon ngọt, hòa nhã dịu dàng, nhỏ nhẹ dễ thương, không nên nói lời cộc cằn thô bạo nếu giúp người mà như thế dễ làm họ chán ghét, phiền muộn khổ đau. Khéo dùng lời nói từ ái hiền hòa, nhưng chân thật nên dễ thành công trong công cuộc độ sinh.

Thứ ba là Bồ tát phải tích cực làm việc gì đó để lợi ích chúng sinh, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy họ mới tin tưởng mình, sau đó chúng ta dùng chánh pháp để giúp họ hướng thiện, dứt ác làm lành.

Thứ tư là đồng sự, Bồ tát phải siêng năng giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm cùng sống với họ. Nhờ sống gần gũi thường xuyên chúng ta mới có cơ hội dùng chánh pháp để thuyết phục họ, tin sâu nhân quả, tự tin chính mình và giúp họ đi theo con đường hướng thượng là luôn chia vui sớt khổ trong thương yêu bình đẳng.

Ai có duyên với Bồ tát thì ngay từ bây giờ hãy nên thành tâm niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm để cầu sự cứu độ của ngài. Chúng tôi hướng dẫn cách thức niệm danh hiệu Bồ tát theo điệu nhạc, vừa thư giản, vừa nhẹ nhàng, vừa dễ định tâm, miệng niệm tai lắng nghe danh hiệu Bồ tát. Giai đoạn hai miệng niệm tâm lắng nghe, giai đoạn ba tâm niệm tâm lắng nghe và thể nhập tánh nghe thường hằng. 

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát…nam mô Quán Thế Âm Bồ tát…nam mô Quán Thế Âm Bồ tát… nhờ thần lực gia hộ của Ngài, nên chúng ta dễ dàng nhiếp tâm không bị tạp niệm chi phối, do đó dễ thành tựu đạo pháp.

Bồ tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham.

Bồ tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham.

Làm sống động tinh thần Quán Thế Âm Bồ Tát

Sau khi niệm danh hiệu Bồ tát thuần thục rồi, chúng ta dùng pháp quán chiếu, xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường, nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định, nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc. Do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch. Muốn vậy Bồ tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm si mê và sống với tính biết sáng suốt nương nới mắt thì thấy nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh, mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ căn Viên Thông là thù thắng hơn hết. Bồ tát Quán Thế Âm do tu: “ phản văn văn tự tánh” Xoay cái hay nghe trở lại tánh nghe thường hằng của mình nên thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Vậy chúng ta làm sao xác định được tánh nghe thường hằng của mình.

Có người hỏi: Bạn đang làm gì đó? Tôi đang nghe. Như vậy thì bạn đâu có quên mình theo vật, đâu có bị môi lưỡi của người khác lừa mình. Như thế là bạn đang sống với tánh nghe thường hằng của mình. Nếu bạn khi nghe ai hỏi, anh đang làm gì đó? Bạn trả lời, tôi làm cái này, tôi làm cái kia là bạn đang quên mình theo vật, là bạn đã chạy theo âm thanh sắc tướng bên ngoài. Có một câu chuyện để nói về tánh nghe của mình, xin mời quý vị hãy cùng chúng tôi lắng nghe. Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi trong thất, có vị Tăng đứng kế bên. Sư hỏi: Bên ngoài có tiếng gì? Tăng thưa: Tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu. Sư nói: Sẽ bảo chúng sinh đau khổ, lại có khổ chúng sinh. Rắn bắt nhái là chúng sinh khổ, vì con lớn hiếp con bé. Song, lại có khổ chúng sinh, chính là vị tăng quên mất mình chạy theo ngoại cảnh. Đây là chiêu thuật của các vị Thiền sư để khám phá những người học đạo có sống được với tâm chân thật của mình qua tánh nghe hay không? Hằng ngày từ sáng sớm đến chiều tối, tai chúng ta chỉ lắng nghe tiếng lớn tiếng nhỏ êm dịu hay chát chúa bên ngoài. Chính vì vậy mà bị âm thanh làm cho mình khỗ não, do ta không chịu thừa nhận mình có tính biết sáng suốt nương nơi tai. Vừa nghe tiếng liền khởi niệm phân biệt phải quấy, đúng sai rồi sinh tâm yêu ghét. Cho nên nói: chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh là vậy đó. Người không biết tu thì khổ đã đành mà người đang tu cũng lại như thế. Rồi hôm sau, Thiền sư hỏi vị Tăng khác: Bên ngoài có tiếng gì? Vị Tăng quá thành thật nên trả lời: Tiếng mưa rơi. Thiền sư bảo: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật. Chỉ có người đã thật sự sống với tâm chân thật của mình, mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, lại biết mình có tính nghe thường hằng là pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm. Âm thanh lớn nhỏ xa gần lúc nào cũng có, tính nghe hiện hữu nên mới thường nghe. Nếu tính nghe bị gián đoạn thì tai ta có lúc nghe, lúc không. Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, rồi hỏi ngài A Nan có nghe không? Ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu. Phật hỏi lại ông có nghe không? Ngài A Nan trả lời là không nghe, bị Phật quở tại sao ông quên mình theo vật. Phật nói tiếp, khi có tiếng là nghe có tiếng, khi không tiếng là nghe không tiếng. Tính nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, không tiếng vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Qua câu chuyện Phật dạy trong Lăng Nghiêm cho Ngài A Nan và những thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm không thông qua phương tiện, không hai không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát. Trong thiền môn có một câu chuyện nỗi tiếng về Bồ tát Quán Thế Âm. Một thiền sinh trên đường đi tham vấn, đến một chùa nọ thấy thờ Bồ tát nghìn tay nghìn mắt mới hỏi thiền sư: Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, vậy mắt nào là mắt chánh? Thiền sư nói: “ Như người ngủ ban đêm, với tay ra sau tìm chiếc gối”. Ngay khi đó là mắt chánh hiện tiền. Chỗ này mọi người tự biết… tôi không thể biết! Cái gì, biết tìm chiếc gối trong đêm tối.

Bồ tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Và con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ tát thương yêu bằng trái tim hiểu biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: phản văn văn tự tánh là xoay cái hay nghe, nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng. Hòa Thượng chúng tôi dạy thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Vậy thiền và kinh đâu có khác, Phật và tổ không hai, đồng một con đường sáng.

Chúng tôi biên soạn kinh Hạnh nguyện Bồ tát Quán thế Âm dựa theo các bản dịch của chư vị Hòa Thượng lão thành và cùng các chư vị Tôn đức khác. Lập ra một pháp tu trì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, nếu ai có nhân duyên với Bồ tát xin hãy cùng chúng tôi đồng hành, để được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, từ thiện duyên lành, để được cho và nhận với tinh thần chia vui sớt khổ với tấm lòng vô ngã vị tha.

Phần sau của bản kinh là nghi thức sám hối để làm mới lại chính mình, chúng tôi cũng trích lược lại cho đơn giản và dễ hiểu, có chú giải trong mỗi câu lạy Phật để các thế nhân mới vào đạo không có điều kiện đến chùa tu học, ở tại nhà tụng đọc cũng đem lại nhiều lợi lạc và an vui. Chúng tôi xin chân thành hồi hướng tất cả công đức lành này đến với pháp giới chúng sinh đều thành tựu Phật đạo.

Quán Thế Âm Bồ Tát là huynh đệ của chúng ta

quan the am bo tat 3

Pháp Lạc Đường mùa an cư kiết hạ năm Tân Mão

Kính ghi

Phong Trần Trúc Giác

KINH HẠNH NGUYỆN QUÁN THẾ ÂM VÀ NGHI THỨC SÁM HỐI

NGUYỆN HƯƠNG

Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni tác đại chứng minh.

Nam mô Thánh đức Bồ tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.

Hương giới, hương định cùng huệ hương.

Hương giải thoát, giải thoát tri kiến.

Đài mây sáng rỡ trùm pháp giới.

Cúng dường Tam bảo khắp mười phương. O

Nam mô Bồ tát hương cúng dường. (3 lần)

Hôm nay là ngày … tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài tác lễ sám hối cầu an, tụng kinh hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm, cung kính bậc thầy ba cõi, chí tâm, chính thành cầu xin sám hối, tất cả tội lỗi cố ý hay vô tình đã tạo ra trong quá khứ cũng như hiện tại, hết thảy đều được tiêu trừ. Cúi mong Tam Bảo thường ở mười phương quang giáng đạo tràng chứng minh cho lòng thành của chúng con, khiến chúng con oan khiên dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin Tam Bảo càng sâu, tâm từ đối với chúng sinh tăng trưởng. Nguyện cho chánh pháp được lan truyền khắp chốn, lời Phật dạy được phổ biến muôn nơi, người người từ bỏ tham, giận, si mê, tưới tẩm từ bi, hạnh phúc, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, làm lành lánh dữ, thế giới dứt nghiệp binh đao, muôn loài an vui giải thoát.

Tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài đồng sám hối cầu siêu, hồi hướng cho các hương linh, vong linh, các oan hồn uổng tử, được thính pháp nghe kinh, được thừa tư công đức, phát tâm tỉnh giác, lìa khổ tối tăm, khởi niệm từ bi, xa rời đường dữ, tin sâu Tam Bảo, tin cõi Phật an vui.

Khắp nguyện: Kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp, mọi người đều chứng ngộ Phật thừa.

Nam-mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni.

CA NGỢI TAM BẢO

Phật là đấng giác ngộ mình,

Độ người thoát khỏi, tử sinh bao đời.

Từ bi, trí tuệ rạng ngời,

Là thầy ba cõi, trời người xưa nay.

Pháp là phương thuốc diệu thay,

Chữa lành bệnh khổ, muôn loài chúng sinh.

Như vầng trăng sáng lung linh,

Soi đường ra khỏi, u minh mê mờ.

Tăng là những bậc chân tu,

Biết đời huyễn mộng, giã từ ra đi.

Thấm nhuần trí tuệ, từ bi,

Độ đời thoát khỏi tham si…. khổ sầu.

Nam mô hoan hỷ tạng Bồ tát. (3 lần)

 

TÁN PHẬT

Đại từ đại bi thương chúng sinh.

Đại hỷ đại xả cứu muôn loài.

Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm.

Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.

 

ĐẢNH LỄ TAM BẢO

Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời thường trú trong mười phương.  (Lạy một lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chánh pháp ba đời thường trú trong mười phương.  (Lạy một lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) OO 

( Bắt đầu vô chuông mõ )

Một tiếng chuông ba tiếng mõ.

Một tiếng chuông một tiếng mõ.

Một tiếng chuông một tiếng mõ.

Một tiếng chuông năm tiếng mõ.

TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP

Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn

Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp

Nay con nghe thấy xin trì tụng

Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu

Nam mô khai pháp tạng Bồ tát. (3 lần)

 

SÁM CẦU NGUYỆN QUÁN THẾ ÂM

Con quỳ, lạy Phật, chứng minh,

Với lòng thành kính, tụng kinh nguyện cầu.

Cầu cho, người vật, hiện tiền,

Muôn loài thoát khổ, bình yên an lành.

Mười hai, nguyện lớn, Quan Âm,

Phát tâm vào đời, để độ chúng sinh.

Lòng thành, tín nữ, thiện nam,

Cùng nhau niệm Phật, ăn chay làm lành.

Quan Âm, xem xét, lắng nghe,

Cứu người chìm nỗi, lênh đênh sông dài.

Hãy mau, niệm Đức Quán Âm,

Tai qua nạn khỏi, hiểm nguy không còn.

Người người, bị lửa đốt thiêu.

Niệm danh Bồ tát, hóa ra sen vàng.

Biển to, sóng lớn, chìm thuyền,

Niệm danh Bồ tát, sóng to hết liền.

Yêu tinh, ma mị, điên khùng,

Niệm danh Bồ tát, bình yên cõi lòng.

Vào rừng, thú dữ, chực chờ,

Niệm danh Bồ tát, chúng liền tránh xa.

Bị tù, bị tội, khảo tra,

Niệm danh Bồ tát, hết cơn nguy nàn.

Bị trù, bị yếm, mê man.

Niệm danh Bồ tát, tâm thần sáng trong.

Quán Âm, nguyện lớn, vào đời,

Tùy duyên cứu khổ, rải ban phước lành.

Nương theo, Bồ tát, Quán Âm,

Thấy mình thể nhập, cũng y như Ngài.

Tay cầm, bình nước, tịnh bình,

Tay cầm nhành liễu, ung dung vào đời.

Cam lồ, chan rải, khắp nơi,

Vui tươi mát mẻ, chúng sinh muôn loài.

Quán Âm, thị hiện, vào đời,

Giúp người thoát khổ, an vui lâu dài. OO

 

PHÁT NGUYỆN TRÌ KINH

Lạy đấng thầy ba cõi,

Quy mạng Phật mười phương,

Nay con phát nguyện lớn,

Thọ trì kinh Hạnh nguyện,

Bồ tát Quán Thế Âm,

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ muôn loài,

Nguyện cho người thấy nghe,

Đều phát tâm Bồ đề,

Sống an vui giải thoát.

Nam mô Phật bổn sư Thích ca Mâu ni. (3 lần) O

 

KINH HẠNH NGUYỆN BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Tôi nghe như vầy: Có vị Bồ tát, hiệu Vô tận Ý, ở trong pháp hội, hoa sen chánh pháp, chấp tay bạch Phật, cung kính thưa rằng: “ Bạch đức Thế tôn, ngài Quán Thế Âm, do nhân duyên gì, được danh hiệu ấy?”

Này Vô Tận Ý, này các Bồ tát, nếu có muôn ức, các loài chúng sinh, chịu nhiều khổ nạn, khi nghe được tên, Bồ tát Quán Âm, một lòng xưng danh, thọ trì miên mật, đều được an vui, giác ngộ giải thoát. O

Nếu ai bất hạnh, bị lửa đốt thiêu, xưng niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, lửa chẳng đốt cháy. Lại nếu có người, bị nước cuốn trôi, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền đến chỗ cạn. Nếu ai đi thuyền, để tìm châu báu, vàng bạc lưu ly, trân châu mã não, hỗ phách xà cừ, san hô ngọc quý, lênh đênh biển lớn, giông gió cuốn trôi, vào nước La sát, thì nên thành tâm, trì niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, bình yên vô sự. O

Lại nếu có người, sắp bị hãm hại, bằng dao gậy kiếm, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, do đó dao gậy, liền biến thành không, và được cứu thoát. Nếu bị các loài, La sát Dạ xoa, làm hại thân này, hãy niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, quỷ dữ bỏ đi.

Lại nếu có người, bị tù bị tội, xiềng xích gông cùm, khổ đau trói buộc, khắp cả toàn thân, nhờ niệm Quán Âm, thoát khỏi tù đày, dứt lìa oan nghiệt.

Lại nếu có người, mang nhiều châu báu, bị cướp tấn công, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, bọn cướp khiếp sợ, không dám hãm hại.

Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Âm, có sức oai thần, nhiệm mầu như thế, công đức sâu dày, không thể nghĩ bàn, rộng độ chúng sinh. Vì thế, các ông nên thường, niệm danh Bồ tát, một lòng tinh chuyên.

Nếu có chúng sinh, tham lam ích kỷ, giận hờn ngu si, phải thường cung kính, niệm danh Bồ tát, thì tham sân si, thảy đều tan biến.

Lại nếu có người, cầu xin con trai, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền sinh con trai, phước đức đầy đủ, trí tuệ hơn người.

Lại nếu có người, muốn cầu con gái, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, hạ sinh thục nữ, xinh đẹp kiều diễm, thì được nhiều người, yêu thích mến thương.

Thần lực Quán Âm, nhiệm mầu như thế! Ta khuyên mọi người, cung kính đảnh lễ, niệm danh Bồ tát, tán thán thọ trì, để được lợi lạc, khắp cả chúng sinh.

Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, liền hỏi Phật rằng: “ Bồ tát Quán Âm, phát tâm vào đời, cứu độ chúng sinh, bằng phương tiện gì, giúp cho muôn loài, thảy đều tỏ ngộ?”.

Này Vô Tận Ý: “Nếu có chúng sinh, thích dùng thân Phật, để được độ thoát, chứng nên quả giác, thì Quán Thế Âm, thị hiện thân Phật, vì họ thuyết pháp.”

Tương tự như thế, tùy theo sở thích, của các chúng sinh, Bồ tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, như thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc Trời Đế thích, hoặc Trời Phạm vương, thân Tự Tại Thiên, đại Tự Tại Thiên, Trời Đại Tướng Quân, hoặc Tỳ Sa môn, tiểu vương trưởng giả, vua quan cư sĩ, hoặc Bà la môn, tín nữ thiện nam, hoặc làm Tăng Ni, hoặc thân công chúa, nữ hoàng tôn quý, đồng nam đồng nữ, hoặc ứng hiện thân: Trời, Rồng, Dạ xoa, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Câu lâu la, hoặc Khẩn na la, Ma hầu na già, thần Chấp Kim Cang, tất cả băm ba, ứng thân sai khác, giúp cho mọi người, an vui giải thoát, thì Quán Thế Âm, sẵn sàng hóa thân, không chút quản ngại. O

Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, cứu độ chúng sinh, khắp cả thế gian, không thể nghĩ bàn. Vì thế các ông, hãy nên một lòng, tán thán cúng dường, Bồ tát Quán Âm. O

Này Vô Tận Ý, thí không sợ hãi, trong chốn trần gian, cứu khổ chúng sinh, tai qua nạn khỏi, chính là nguyện lớn, Bồ tát Quán Âm, nên cõi Ta Bà, thảy đều gọi ngài, là Quán Tự Tại. O

Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, xin thưa đức Phật, cho con cúng dường, Bồ tát Quán Âm. Nói xong ngài đem, chuỗi ngọc như ý, tặng làm pháp thí, giá trị ngàn vàng, cung kính cúng dường, Bồ tát Quán Âm. Bồ tát Quán Âm, không dám chịu nhận, chuỗi ngọc như ý. Phật liền dạy rõ, về pháp cúng dường, khuyên Quán Thế Âm, hãy vì bốn chúng, tám bộ trời rồng, và Vô Tận Ý, nhận chuỗi pháp thí, lợi ích trời người.

Phật vừa dứt lời, Bồ tát Quán Âm, vui vẻ đón nhận, chia làm hai phần, một phần dâng cúng, đức Phật Thích ca, còn lại phần kia, cúng tháp Đa Bảo. O

Bấy giờ trong hội, có vị Bồ tát, tên là Trì Địa, chấp tay thưa Phật : “Bạch đức Thế tôn, nếu có chúng sinh, nghe được kinh này, cũng như công đức, ứng hiện các thân, tùy duyên giáo hóa, của ngài Quán Âm, thì phước người ấy, vô lượng vô biên”. O

Khi nghe Phật nói, hạnh nguyện Quán Âm, tám mươi bốn ngàn, các loại chúng sinh, thảy đều phát tâm, Vô Thượng Chánh Giác.

Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần) OOO

KỆ TÁN QUAN ÂM

Cành dương liễu, nước tịnh nhiệm mầu.

Rưới tắt muôn vàn, cảnh khổ đau.

Chư thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh.

Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn.

Cam lồ rưới khắp trần gian,

Não phiền dứt sạch, sen vàng nở hoa. OOO

TÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU KÍNH RỘNG LỚN

Khi Bồ tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế.

Này Xá Lợi Phất! Tướng không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Cho nên trong tướng “không” không có sắc thọ tưởng hành thức. Không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thinh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết, không có khổ tập diệt đạo, không có trí huệ cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được, nên Bồ tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát Nhã Ba La Mật Đa được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nên biết, Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ chân thật không dối. Vì vậy, nói chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, liền nói chú rằng: “Yết đế, yết đế, Ba La yết đế, Ba La tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha”.(3 lần) OOO

MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN

Một nguyền khi hành Bồ tát đạo,

Danh hiệu tôi Tự Tại Quán Âm.

Sáu căn thanh tịnh viên thông,

Chỗ nào khốn khổ liền tìm đến nơi.

Hai nguyền không sợ gian nan,

Vớt người chìm đắm, biển sông lâu dài.

Ba nguyền ứng hiện Ta Bà,

U minh đau khổ mau mau giải trừ.

Bốn nguyền ma quỷ yêu tinh,

Hãy mau thức tỉnh hồi quy Phật Đà.

Năm nguyền Dương liễu Tịnh bình,

Cam lồ rưới mát, nhân thiên an lành.

Sáu nguyền bình đẳng xót thương,

Không còn phân biệt, thân sơ mọi loài.

Bảy nguyền dứt khổ ba đường,

Chúng sinh thoát nạn, không còn trầm luân.

Tám nguyền cứu khổ tội tù,

Chúng sinh vui vẻ, an nhiên thanh nhàn.

Chín nguyền cứu khổ thế nhân,

Thảy đều thể nhập, Niết bàn vô sinh.

Mười nguyền hổ trợ Tây Phương,

Muốn cho tất cả, biết đường về Tây.

Mười một nguyền Di Đà thọ ký,

Cảnh Tây Phương tuổi thọ lâu dài,

Chúng sinh muốn sống an lành,

Niệm danh Bồ tát, Tây Phương mau về.

Mười hai nguyền tinh tấn tu hành,

Dù thân này lao khổ trăm bề,

Thành tâm nỗ lực không ngừng,

Mười hai nguyện lớn độ sinh đời đời. OOO

 

KỆ SÁM HỐI

Con đã gây ra bao lầm lỗi

Khi nói khi làm khi tư duy

Tham lam hờn giận và ngu si

Nay con cúi đầu xin sám hối.

Một lòng con cầu Phật chứng tri

Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới

Nguyện sống đêm ngày trong tỉnh giác

Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.

Cúi xin các Phật Thế-tôn,

Nhủ lòng thương xót chúng sinh mê mờ.

Hoặc tội ác tự tay tạo tác

Hoặc xúi bảo kẻ khác từng làm

Hoặc thấy việc ác không can

Lại còn hoan hỷ sinh tâm đồng tình.

Những tội ác tự mình trộm cướp

Của chùa chiền bảo tháp chư tăng

Tự tay mình lấy giả lầm

Hoặc xui người lấy mừng vui trong lòng.

Hoặc tự tay gây tạo tham tàn

Làm mười điều ác lại coi thường

Hoặc dùng thế lực ép oan,

Đều sa địa ngục A-tỳ đáng khinh.

Làm quỷ đói súc sinh đau khổ

Hoặc giam mình nẻo dữ không thôi

Làm loài hèn hạ nhất đời

Nếu được làm người làm người thấp kém.

Nay con nguyện thật thà sám hối

Biết bao điều tội lỗi xưa nay

Cúi xin chư Phật chứng minh

Xót thương cho nỗi khốn cùng của con.

Xin chư Phật rủ lòng thương xót

Nay con xin quỳ trước Phật đà

Phát tâm thệ nguyện thật thà

Đời đời kiếp kiếp trồng gieo căn lành.

Xin phát nguyện làm lành lánh dữ.

Kể từ đây muôn kiếp không thôi.

Con nhất tâm nguyện sống đời lành.

Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo.

Lên thuyền từ vượt qua biển khổ.

Cầm đuốc tuệ ra khỏi rừng mê.

Thân miệng ý luôn luôn trong sạch.

Đi đứng nằm ngồi trong tỉnh giác.

Lạy Phật tổ soi đường chỉ lối.

Hôm nay đây khẩn thiết thề nguyền.

Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm.

Không còn vương vấn chuyện xưa nay.

Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát.

 

CHÚNG CON TỤNG TAM QUY VÀ VÂNG GIỮ NĂM ĐIỀU ĐẠO ĐỨC.

TỤNG TAM QUY Y

Chúng con nguyện suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. (3 lần)

Quy y Phật, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng kính thờ tu theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là vị thầy giác ngộ sáng suốt của chúng con. Quy y Phật rồi, chúng con không tu theo trời, thần, quỷ vật.

Quy y Pháp, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng, học hỏi và tu theo lời dạy của Phật. Quy y Pháp rồi, chúng con không tu theo ngoại đạo tà giáo.

Quy y Tăng, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng tu theo Tăng sĩ hướng dẫn đúng theo chánh pháp Như lai. Quy y Tăng rồi, chúng con không si mê làm thân với nhóm dữ bạn ác.

TỤNG NGŨ GIỚI

Con nguyền từ bỏ sát sanh

Tôn trọng sự sống, rải ban tâm lành.

Thương yêu người vật môi sinh

Cho đời hạnh phúc, muôn loài an vui.

Con nguyền từ bỏ trộm gian

Mánh mung cướp của, tham lam xin chừa.

Sống chân thật chẳng lọc lừa

Cho tròn nhân nghĩa, cho vừa nhân sinh.

Con nguyền từ bỏ ngoại tình

Một chồng một vợ, tấm lòng trinh nguyên.

Thương yêu tôn trọng cảm thông

Ngọt bùi chia sẻ, thủy chung trọn đời.

Con nguyền từ bỏ nói sai

Bớt lời chửi tục, móc moi hai đầu.

Nói như chánh pháp cao sâu

Im như bậc thánh, nhiệm mầu thấy nghe.

Con nguyền từ bỏ rượu chè

Say sưa nghiện ngập, thân mê trí mờ.

Để không bệnh hoạn thẫn thờ

Để cho tâm trí lặng lờ sáng trong.

Từ nay con nguyện với lòng

Giữ gìn năm giới, quyết không phạm lầm.

Để cho con sống thanh cao

Để đời an lạc, dạt dào tình thương.

 

KINH HÀNH NIỆM DANH HIỆU BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM. ( Hoặc ngồi tại chỗ niệm.)

 Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (108 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (3 lần)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. (3 lần)

Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát. (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát. (3 lần )

Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát. (3 lần)

 

SÁM MƯỜI NGUYỆN

Một nguyền kính lễ Như Lai.

Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.

Ba nguyền tu phước cúng dường.

Bốn nguyền sám hối nghiệp vương tội trần.

Năm nguyền vui vẻ an lành.

Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người.

Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.

Tám nguyền học Phật sáng ngời tâm linh.

Chín nguyền hằng thuận chúng sinh.

Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Sám hối công đức khôn tính kể

Thắng phước vô biên đồng hướng về

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn.

Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não

Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời

Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ

Đời đời thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện đem công đức tu hành này

Chan rải mười phương khắp tất cả

Con và cha mẹ ông bà

Chúng sinh giác ngộ, cõi đời an vui.

 

PHỤC NGUYỆN

Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.

Nam mô Phật bổn sư Thích ca Mâu Ni tác đại chứng minh.

Nam mô Thánh đức Bồ tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.

Cửa thiền thường nghiêm tịnh

Toàn chúng mãi thuận hòa

Phật huệ chiếu sáng ngời

Mưa pháp hằng nhuần gội

Phật tử lòng tin sâu

Ruộng phước càng tăng trưởng

Chúng sinh sống an lạc

Vui hưởng cảnh thái bình

Nơi nơi dứt đao binh

Mỗi mỗi đều thành Phật.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni.

 

ĐẢNH LỄ BA NGÔI BÁU

Con xin nương tựa Phật

Bậc phước trí vẹn toàn

Cầu tất cả chúng sinh

Giác ngộ, phát tâm lành. (một lạy)

 

Con xin nương tưa Pháp

Nguồn tuệ giác Từ bi

Cầu tất cả chúng sinh

Hiểu đạo, tỏ nguồn tâm. (một lạy)

 

Con xin nương tựa Tăng

Đoàn thể sống an vui

Cầu tất cả chúng sinh

Hòa hợp, thương mến nhau. (một lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức tu hành này

Chan rải mười phương khắp tất cả

Con và cha mẹ ông bà

Chúng sinh giác ngộ, cõi đời an vui.

 

SÁM HỐI LẠY HỒNG DANH PHẬT VÀ BỒ TÁT

Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni tác đại chứng minh.

Nam mô Thánh đức đại từ đại bi Bồ Tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.

 

NGUYỆN HƯƠNG

Hương giới, hương định cùng huệ hương

Hương giải thoát, giải thoát tri kiến

Đài mây sáng rỡ trùm pháp giới

Cúng dường Tam bảo khắp mười phương

Nam mô Bồ tát hương cúng dường (3 lần)

Hôm nay là ngày…tháng…năm…tất cả đệ tử chúng con đồng tâm quỳ trước Phật đài (hoặc Thánh đức Bồ Tát Quán Thế Âm) tác lễ sám hối lạy hồng danh Bồ tát Quán Thế Âm. Ngưỡng mong Tam bảo thường ở mười phương, quang giáng đạo tràng chứng minh cho lòng thành của chúng con, khiến chúng con oan khiên dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin Tam bảo càng sâu, tâm từ đối với chúng sinh tăng trưởng.

Thứ nguyện cầu siêu cho các hương linh, vong linh, các oan hồn uổng tử, được thính pháp nghe kinh, được thừa tư công đức, phát tâm tỉnh giác, lìa khổ tối tăm, khởi niệm từ bi, xa rời đường dữ, tin sâu Tam bảo, tin cõi Phật an vui.

Khắp nguyện, kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, chúng sinh được thấm nhuẩn mưa pháp, mọi người đều chứng ngộ Phật thừa.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni. O

Chúng ta ứng dụng phương pháp sám hối lạy hồng danh Phật và Bồ tát, nhằm mục đích thấy được lỗi lầm của mình từ vô thủy kiếp đến nay do cố ý hay vô tình đã tạo ra trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, làm cho người và vật chịu nhiều đau khổ. Do chúng ta thấy biết sai lầm nên si mê chấp ngã chiếm hữu, chính vì vậy làm cái gì cũng muốn bóc lột vơ vét về cho mình thật nhiều, mặc kệ mọi người bất hạnh khổ đau.

Chúng ta chí tâm, chí thành sám hối để biết rõ cách thức ngăn ngừa tội lỗi, không cho chúng tái phạm và trong hiện đời không gây tạo thêm nghiệp xấu ác nữa, mà hay làm các việc tốt lành để giúp đỡ mọi người, sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sám hối để chúng ta chuyển hóa các nghiệp không được tốt đẹp như nghèo, dốt, bệnh, xấu. Có ai muốn mình nghèo đâu, sao mà cái nghèo cứ đeo đẳng mãi, thôi thì ta bán quách cái nghèo đi, để được hưởng lấy sự giàu sang sung sướng. Có một bà già nghèo khổ suốt tám mươi năm, gặp Bồ tát chỉ cách bán đi cái nghèo nhờ thành tâm cung kính cúng dường một bát nước sông, mà sau này bà chết đi và được tái sinh làm một thiên nữ muốn gì được đó. Cũng tương tự như thế muốn không ngu dốt thì phải học hỏi, quán chiếu soi sáng tu tập, muốn không bệnh khổ và chết yểu, thì không nên giết hại làm khổ người vật, muốn có dung sắc đẹp đẻ hình dáng trang nghiêm, thì không nên nóng giận phiền muộn quá mức. Và chúng ta sám hối lạy Phật, Bồ tát làm sao chuyển nghèo khổ, khó khăn thiếu thốn, thành giàu sang sung sướng đầy đủ dư dã, chuyển ngu mê tối tăm, thành sáng suốt thanh tịnh, trí tuệ và từ bi, chuyển bệnh hoạn đau yếu thành khỏe mạnh trường thọ, chuyển xấu xí bất hạnh thành đẹp đẽ trang nghiêm.

Sám hối lạy Phật, Bồ tát là một nghệ thuật thẩm mỹ làm cho thân tâm ta được thay hình đổi dạng, nhờ ngăn dừng nghiệp xấu ác của quá khứ. Chúng ta luôn ý thức làm mới lại chính mình nhờ những việc làm tốt đạo, đẹp đời, có ích cho người trong hiện tại, vừa là một phương pháp rèn luyện thân thể hoàn chỉnh với tinh thần nhiếp niệm, nhiếp tâm điều hòa, nhờ vậy cơ thể được vận động theo chiều thông suốt, làm cho thân tâm nhất như, trở về một thể tính sáng suốt nhiệm mầu. Do đó chúng ta cảm thấy an lạc nhẹ nhàng sau khi sám hối lạy Phật, Bồ tát, nhờ vậy căn lành thêm tăng trưởng, cá nhân luôn lạc quan yêu đời, sống hiểu biết và yêu thương hơn, nên gia đình trên thuận dưới hòa, xã hội giảm bớt si mê lầm lạc, thế giới cùng nhau chung hưởng an vui thái bình.

Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát.OO

(Vô chuông mõ)

TÁN PHẬT

Đại từ đại bi thương chúng sinh

Đại hỷ đại xả cứu muôn loài

Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm

Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.

- Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy xong chủ lễ đọc.)

Một lạy này chúng con tưởng nhớ công ơn cao cả của chư Phật vô lượng vô biên, nguyện cầu chư Phật luôn có mặt ở đời để hướng dẫn và dìu dắt chúng con, vượt qua cạm bẫy cuộc đời, được thành tựu đạo quả giác ngộ và giải thoát.

Người Phật tử tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm, trước khi lạy sám hối hồng danh Bồ tát cầu sự gia hộ của ngài, để chúng ta có thêm nghị lực và đủ niềm tin trong cuộc sống, nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Đầu tiên chúng ta phải chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ chư Phật khắp mười phương, cầu sự gia hộ của các đấng đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi. Nhờ sự ra đời của chư Phật mà chúng ta biết được điều hay lẽ phải trong cuộc sống, biết được đạo lý làm người, để chúng ta sống có nhân cách đạo đức tốt và dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Cho nên chúng ta cung kính đảnh lễ chư Phật, để tỏ lòng biết ơn các Ngài đã chỉ cho ta biết được con đường hướng thượng tốt đẹp trọn vẹn, để chuyển hóa si mê, tối tăm, mờ mịt, thành trong sáng thanh tịnh, chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc và trí tuệ từ bi, do đó mọi người sống với nhau có hiểu biết và yêu thương, cảm thông và tha thứ, với tinh thần vô ngã vị tha. Nhờ vậy chúng ta thoát khỏi mê lầm từ muôn kiếp.

- Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chánh pháp ba đời thường trú trong mười phương.

Một lạy này chúng con xin nguyện cầu lời dạy chân chánh của chư Phật luôn hiện tiền ở thế gian, để giúp mọi người ý thức được sự sống của chúng ta là phải “ tương thân, tương trợ, nương nhờ lẫn nhau.” Chính vì nguyên lý tương quan, tương duyên này, mà chúng ta phải có trách nhiệm bổn phận, đoàn kết yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần từ bi hỷ xả và với tấm lòng vô ngã vị tha.

Chánh pháp là lời dạy vàng ngọc quý báu của chư Phật, giúp chúng ta hiểu biết chân lý cuộc đời chính là nền tảng nhân quả, hay nói cho đủ là nhân duyên quả. Gieo nhân gặt quả mình làm lành được hưởng phước báu trời người, giàu sang sung sướng, phúc lạc vô biên. Mình làm ác chịu quả bất hạnh khổ đau đọa ba đường dữ, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Do đó, chúng ta có thể biết rõ cội nguồn của an vui và hạnh phúc. Nhờ vậy, người con Phật luôn ý thức được khổ đau do sự giết hại, trộm cướp lường gạt, làm điều phi pháp, tà dâm, nói dối và uống rượu say sưa, dùng các chất kích thích như xì ke ma túy hại mình và người. Nên chúng ta quyết tâm nói không với các điều xấu ác và cố gắng làm lành, làm tốt, với tinh thần sáng suốt, trí tuệ từ bi. Nhờ vậy, con người được nâng cao trình độ hiểu biết, đất nước giảm bớt tệ nạn xã hội, cá nhân được tăng trưởng phước báu, gia đình trên thuận dưới hòa và nhân loại sẽ sống trong bình an và hạnh phúc.

- Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc hiền Thánh ba đời thường trú trong mười phương.

Một lạy này chúng con xin nguyện cầu tất cả chư hiền thánh Tăng luôn có mặt ở đời để dìu dắt và hướng dẫn cho chúng con, sống được an vui và hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Phật đã nhập Niết bàn, chỉ còn để lại lời dạy vàng ngọc của Ngài, chư Tăng Ni cùng các bậc hiền Thánh nối tiếp theo con đường của Phật để vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người, nếu ai quyết chí đi theo con đường hướng thượng. Con đường này do chính mình quyết định, không ai có quyền ban phước giáng họa, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do mình tạo lấy.

Chúng ta cung kính đảnh lễ tất cả Tăng bậc hiền Thánh, để được học hỏi lời Phật dạy qua sự hướng dẫn của chư Tăng ni. Chúng ta cố gắng ứng dụng tu tập vào trong đời sống hằng ngày, để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc và sẳn sàng cùng chia vui sớt khổ với tất cả mọi người.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô hiện tại Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Một lạy này chúng con cung kính tưởng nhớ công ơn giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni trong hiện đời, nhờ vậy chúng con biết được đạo lý làm người, nên luôn sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người, giống như tất cả mỗi người chúng ta, cũng từ một con người phàm phu được sinh ra từ cha mẹ. Nhưng ngài ý thức được sự khổ đau do con người chấp ngã và chiếm hữu, để tranh giành quyền lợi cho riêng mình, nên con người bất an, gia đình bất hòa, xã hội loạn lạc, thế giới khổ đau. Vì tham riêng cho bản thân mình, gia đình mình, đất nước mình, nên con người đấu tranh giết hại lẫn nhau để bảo tồn sự sống. Đức Phật thấy rõ sự tác hại của nó, nên ngài từ bỏ tiền bạc, danh vọng địa vị, quyền uy thế lực, vợ đẹp con ngoan, ăn ngon ngủ kỹ, để ra đi tìm chân lý sống cho nhân loại. Ngài đã tìm ra nguyên nhân và cách thức để giúp cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Nhờ đó mà ngày nay chúng ta biết được đạo lý làm người, luôn sống có ích cho mình, cho gia đình và cho xã hội.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni để tưởng nhớ đến công ơn của Ngài, mà cố gắng bắt chước học và làm theo, với tinh thần tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Nghĩa là sau khi mình giác ngộ rồi, tìm cách hướng dẫn giúp đỡ mọi người, cho đến khi thành tựu viên mãn mới thôi.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô quá khứ Phật A Di Đà.

Một lạy này chúng con cung kính nguyện cầu Phật A Di Đà vì cõi Ta bà khổ, phát đại thệ nguyện tiếp dẫn tất cả chúng sinh về cõi Cực Lạc.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ Phật A Di Đà vì Ngài có vô lượng trí tuệ từ bi nên gọi là Vô lượng Quang, mỗi hành giả nhờ nhiếp tâm niệm Phật, quán chiếu, thiền định và đạt đến nhất tâm bất loạn, do đó thông suốt hết ba cõi, nên không còn bị sinh tử luân hồi chi phối, nhờ vậy mà không còn giới hạn ở tuổi thọ, cho nên gọi là Vô lượng Thọ.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tương lai hạ sinh Phật Di Lặc Tôn.

Một lạy này chúng con cung kính nguyện cầu Phật Di Lặc ra đời, khi thế gian không còn ai là người tốt nữa. Nhân loại sống trong chiến tranh binh đao, tàn sát giết hại lẫn nhau, không thương tiếc vì mưu cầu lợi ích cá nhân.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính tương lai hạ sinh Phật Di Lặc, vì theo nguyên lý vô thường của bầu vũ trụ bao la, trái đất này cũng bị thay đổi theo thời gian, nên cuối cùng dẫn đến thành, trụ, hoại, không. Sau khi Tam bảo đã bị mai một, không còn ai biết đến Phật pháp nữa, lúc này đức Phật Di Lặc ra đời để tiếp tục cứu độ chúng sinh. Cho nên chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính cầu sự ra đời của Ngài, để giúp ích cho tất cả chúng sinh thoát khỏi phiền muộn khổ đau và luôn được an vui hạnh phúc.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tổ sư Đại Ca Diếp.

Một lạy này chúng con cung kính tưởng nhớ tổ sư Đại Ca Diếp, người đã có công lao to lớn chủ trì kiết tập trùng tụng lại lời Phật dạy, để hàng hậu học chúng ta biết được đạo lý làm người, đạo lý giác ngộ và giải thoát, mà tu hành chuyển hóa tham lam, sân hận, si mê, thành thanh tịnh sáng suốt, trí tuệ và từ bi.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ tổ sư Đại Ca Diếp, vì ngài là vị tổ được kế thừa sự nghiệp đức Phật. Là nhà mô phạm đạo đức gương mẫu, khổ hạnh bậc nhất, sống đơn giản với tiêu chí ít muốn biết đủ, biết sống hài hòa và bằng lòng với hiện tại. Suốt cuộc đời hoằng hóa độ sinh, ngài luôn khiêm hạ thấp mình đối với người trên kẻ dưới, ngài đã có công chủ trì kết tập kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ Xà Quật, với năm trăm vị A la Hán chứng minh, do vua A Xà Thế hổ trợ và bảo trì.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tổ sư A Nan.

Một lạy này chúng con cung kính tưởng nhớ công ơn tổ sư A Nan, người đã có công đọc lại lời Phật dạy nhờ đó mà chúng ta biết được giáo pháp chân chánh để ứng dụng hành trì.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ tổ sư A Nan, vì nhờ có ngài trùng tuyên lại lời Phật dạy, mà ngày nay chúng ta biết được phương pháp tu hành, để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô các bậc tiền nhân Tổ tiên ông bà cha mẹ nhiều đời.

Một lạy này chúng con cung kính tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân ông bà cha mẹ tổ tiên, đã lao công nhọc sức sinh thành dưỡng dục nuôi nấng dạy dỗ giúp ta nên người.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ các bậc tiền nhân tổ tiên ông bà cha mẹ nhiều đời, vì nhờ có các ngài đi trước hy sinh chịu khó, chịu khổ khai hoang làm ruộng, trồng trọt hoa màu để có lương thực nuôi sống chúng ta. Nhờ có mẹ sinh, cha nuôi dưỡng, công lao khổ nhọc nuôi ta khôn lớn trưởng thành, cho nên chúng ta cần phải hết lòng hiếu kính với cha mẹ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn sâu sắc.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.

Một lạy này, chúng con cung kính tưởng nhớ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã nhắc nhỡ cho chúng ta, ai cũng có trí tuệ sáng suốt sẵn có của chính mình, vì mãi mê chạy theo cuộc sống tiền tài, sắc đẹp, địa vị danh vọng, ăn ngon ngủ kỹ, cho nên chúng ta quên mất tánh biết hằng sáng suốt thanh tịnh của mình.

Chúng ta chí tâm, chí thành, đảnh lễ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi vì nhờ có ngài khai phát trí tuệ sáng suốt cho vô lượng chúng sinh. Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền là hai vị sứ giả đi theo phụ tá đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong hiện đời. Bồ tát Văn Thù là tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt thanh tịnh của mỗi người. Bồ tát Phổ Hiền là tượng trưng cho công hạnh độ sinh, từ bi hỷ xả, giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, để vươn lên làm mới lại chính mình, làm mới lại cuộc đời và sống an vui hạnh phúc, trên tinh thần tương thân tương trợ đùm bọc thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi Bồ tát đại hạnh Phổ Hiền.

Một lạy này, chúng con cung kính tưởng nhớ Bồ tát Phổ Hiền, vì nhờ có ngài phát đại thệ nguyện mạnh mẽ dấn thân đi vào đời để cứu vớt chúng sinh, vượt qua biển khổ sông mê.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ Bồ tát Phổ Hiền, vì nhờ có ngài chịu khổ dấn thân cùng sống vì mọi người, cùng đồng hành, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng an ủi, cùng giúp đỡ, cùng hy sinh và cùng chia vui sớt khổ. Bồ tát Phổ Hiền có một tâm nguyện hết sức dễ thương, ngài đến thế gian này để ngăn chặn ma quân ngũ dục và bảo vệ người tu hành chân chánh.

 - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi Bồ tát Đại Thế Chí.

Một lạy này, chúng con cung kính đảnh lễ Bồ tát Đại Thế Chí, là người đã can đảm dũng mãnh phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh. Bồ tát Đại Thế Chí và Bồ tát Quán Thế Âm, là hai vị Bồ tát đi theo phụ tá đức Phật A Di Đà.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ Bồ tát Đại Thế Chí, vì nhờ có ngài hy sinh chịu khó, chịu khổ, dấn thân đi vào đời cứu khổ thế nhân. Nhưng chúng sinh cõi Ta Bà này cang cường ương nghạnh khó điều phục, nên muốn vào đời giúp nhân loại vượt qua si mê lầm lạc, chúng ta phải phát tâm đại dũng mãnh, đại tinh tấn, đại nhẫn nhịn nhường, đại trí huệ từ bi rộng lớn, như thế mới đủ khả năng và sức chịu đựng lâu dài, hướng dẫn giáo hóa chúng sinh trong cõi Ta bà vui ít, khổ nhiều.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi Bồ tát Quán Thế Âm.(100 lạy hoặc tùy theo nguyện lực của mỗi người mà lạy nhiều hay ít tùy ý).

Một lạy này chúng con cung kính tưởng nhớ công ơn Bồ tát Quán Thế Âm vì sự nghiệp sống còn của tất cả chúng sinh, mà sẳn sàng chia vui sớt khổ bình đẳng với mọi người, không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Chúng ta chí tâm, chí thành, cung kính đảnh lễ Thánh đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì công hạnh của ngài không thể nghĩ bàn. Ngài đã thành Phật từ vô số kiếp, nhưng vì thương chúng sinh còn mãi chìm đắm trong biển khổ sông mê. Nên Bồ tát Quán Thế Âm phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh, không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán. Sở dĩ Bồ tát được mang danh hiệu là Quán Thế Âm, là vì ngài luôn đem niềm vui đến cho tất cả chúng sinh và sẳn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau đến với muôn loài. Như thiên tai, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất, bị yêu tinh ma mị hảm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến nạn trộm cướp và vua quan chiếm đoạt. Hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm xứng đáng cho chúng ta học hỏi và bắt chước noi theo, vì ngài dấn thân đi vào đời để cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác và cùng chia vui sớt khổ với tất cả chúng sinh. Bồ tát Quán Thế Âm lúc nào cũng ứng hiện ba mươi ba thân, vì lợi ích chúng sinh chịu nhiều đau khổ đắng cay, nhưng vẫn bền chí nhẫn nhịn nhường người để tu hành, đến khi công tròn quả đủ ngài tự tại ra đi, khi đó ta mới biết người có tình thương cao cả đó là Bồ tát Quan Âm. Chúng ta tu và học theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm như nhịp cầu, nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, với tinh thần từ bi và trí tuệ, với tấm lòng vô ngã vị tha, không thấy ai là kẻ thù, dù người đó đã hại mình. Đây chính là nguyện lực cao cả của Bồ tát Quán Thế Âm, chúng ta cần phải học hỏi và cố gắng bắt chước làm theo.

ĐI KINH HÀNH NIỆM DANH HIỆU BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM.

Hoặc ngồi niệm tại chỗ.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (18 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát (3 lần)

Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát (3 lần)

Nam mô  Địa tạng Vương Bồ tát (3 lần)

Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Lạy Phật công đức khôn tính kể

Thắng phước vô biên đồng hướng về

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn.

Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não

Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời

Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ

Đời đời thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện đem công đức tu hành này

Chan rải mười phương khắp tất cả

Con và cha mẹ ông bà

Chúng sinh giác ngộ, cõi đời an vui.

 

PHỤC NGUYỆN

Nam mô Thánh đức Bồ tát Quán Thế Âm, với hạnh nguyện ban vui cứu khổ, ứng thân hóa hiện vào đời, đem tình thương chan rải khắp thế gian. Độ muôn loài tai qua nạn khỏi, giúp hết thảy bệnh tật tiêu trừ. Để người phúc lộc dồi dào, cùng nhau chung hưởng an vui thái bình.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni tác đại chứng minh.

Cửa thiền thường nghiêm tịnh

Toàn chúng mãi thuận hòa

Phật huệ chiếu sáng ngời

Mưa pháp hằng nhuần gội

Phật tử lòng tin sâu

Ruộng phước càng tăng trưởng

Chúng sinh sống an lạc

Vui hưởng cảnh thái bình

Nơi nơi dứt đao binh

Mỗi mỗi đều thành Phật.

Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni. OO

 

ĐẢNH LỄ TAM BẢO

Con xin nương tựa Phật

Bậc phước trí viên thành

Cầu tất cả chúng sinh

Giác ngộ phát tâm lành. (1 lạy)

 

Con xin nương tựa Pháp

Nguồn tuệ giác từ bi

Cầu tất cả chúng sinh

Hiểu đạo tỏ nguồn tâm. (1 lạy)

 

Con xin nương tựa Tăng

Đoàn thể sống an vui

Cầu tất cả chúng sinh

Hòa hợp thương mến nhau. (1 lạy)

 

BỐN LỜI NGUYỆN LỚN

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện bỏ

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 Người tu theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm phải can đảm dũng mãnh phát tâm thực hành bốn nguyện lớn. Bốn nguyện này bao trùm hết tất cả các nguyện của chư Phật. Điều thứ nhất người tu theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm phải kiên cường bền bỉ độ hết thảy tất cả chúng sinh, thề không thủ ngôi chánh giác khi thế gian này vẫn còn chúng sinh đau khổ. Muốn được như vậy thì mỗi hành giả phải siêng năng nổ lực tinh cần, chuyển hóa tham lam sân giận si mê thành vô lượng trí tuệ từ bi, với tấm lòng vô ngã vị tha. Điều thứ hai người tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm phải phát tâm dũng mãnh, bỏ hết các phiền não tham sân si có tính cách hại người và vật. Muốn được vậy thì, mỗi hành giả phải cố gắng siêng năng tinh cần học hiểu vô lượng pháp môn Phật dạy, để phương tiện giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán. Điều thứ ba, người tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm phải thông suốt hết thảy các pháp môn Phật dạy. Mỗi hành giả khi đã học hiểu rồi, thì phải phát tâm tu hành cho đến khi nào thành Phật mới thôi. Điều thứ tư, người tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm phải dũng mãnh, kiên cường không thủ ngôi chánh giác, để độ tất cả chúng sinh đều được thành Phật.

Nam mô Bồ tát hương cúng dường.(3 lần)

THAY LỜI KẾT

Quyển nghi thức Hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm chúng tôi biên soạn chia ra làm ba phần:

Phần đầu chúng tôi triển khai đọc tụng kinh hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, để mọi người biết được công hạnh và việc làm của Ngài trong hiện tại, mà bắt chước học và làm theo.

Phần hai chúng tôi biên soạn nghi thức sám hối và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức, để mỗi người con Phật y thức được khổ đau do sự giết hại, trộm cướp lường gạt, tà dâm, nói dối hại người, uống rượu say sưa, dùng các chất kích thích như xì ke ma túy để làm khổ mình và hại người. Sám hối để biết được lỗi lầm, mình đã gây tạo ra từ vô thủy kiếp cho đến nay, mà tìm cách không cho chúng tái phạm nữa.

Phần ba chúng tôi biên soạn nghi thức sám hối lạy hồng danh Phật và Bồ tát, có sự giải thích rõ ràng về các công hạnh của chư Phật, Bồ tát. Lạy hồng danh Phật và Bồ tát là một phương pháp hành trì cao tột, giúp thân tâm hóa giải các oan khiên nghiệp báo nhiều đời càng ngày càng được trong sạch. Để chúng ta vừa tiêu trừ nghiệp xấu ác cũ, vừa thâm nhập trí tuệ từ bi của Phật và Bồ tát, nhờ thần lực gia hộ của các Ngài, mà chúng ta đủ niềm tin và nghị lực để chuyển hóa các phiền muộn khổ đau, thành an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Phương pháp lạy Phật, Bồ tát là kết tinh đặc sắc của giáo lý Phật đà nhằm giúp cho người đương thời chuyển hóa các bệnh về thân và tâm, làm cho tinh thần người hành trì luôn được an ổn và vui tươi.

Toàn thân năm vóc cúi rạp mình sát đất khi lạy Phật, Bồ tát là một phương pháp thể dục thẩm mỹ rất nhẹ nhàng, được cử động đồng đều cùng một lúc nên làm cho máu huyết trong người lưu thông hài hòa. Cách đơn giản nhất vừa lạy vừa niệm danh hiệu Bồ tát hoặc vừa lạy vừa theo dõi hơi thở. Chúng ta lạy một cách chậm rải từ tốn hài hòa, đứng lên niệm nam mô Bồ tát Quán Thế Âm và lạy xuống niệm nam mô Bồ tát Quán Thế Âm, cứ như thế chậm rải vừa lạy vừa niệm. Ở đây chúng tôi chủ xướng phương pháp lạy Bồ tát, sau khi lạy xong một lạy, chúng tôi có nhắc lại công hạnh của mỗi vị để mọi người biết được mà học hỏi và bắt chước làm theo.

Tùy theo hoàn cảnh chúng ta có thể áp dụng lễ lạy làm sao cho thích hợp với điều kiện của mình. Khi chưa quen chúng ta có thể lạy mỗi ngày ít nhất là 30 lạy và tăng dần cho đến 108 lạy hoặc hơn nữa thì tốt. Chúng ta nên nhớ, hành giả tu theo pháp lạy Bồ tát phải bền chí kiên trì giữ đều đặn. Việc lễ lạy chúng ta có thể áp dụng bất kỳ chỗ nào cũng được, miễn không gian chỗ đó đủ để ta lạy. Khi lạy hai tay chấp trước ngực, từ từ đưa lên trán, rồi đưa trở xuống ngực và lạy xuống sát đất, đó là sự biểu hiện thân tâm nhất như cung kính lễ. Lúc lạy xuống hai tay, hai chân và trán đều phải chấm đất để tỏ lòng tôn kính. Tức năm phần của thân thể đều được chấm đất. Khi lạy, chúng ta cố gắng kết hợp hài hòa, thân cúi xuống, miệng niệm danh hiệu Bồ tát, tâm lắng nghe mỗi cử chỉ đều khoan thai từ tốn và cứ như thế đứng lên quỳ xuống một cách nhẹ nhàng.

Phương pháp lạy Phật, Bồ tát là một phương pháp dễ thực hành và đơn giản mà lại lợi ích thiết thực. Đa số các chùa vào mùa an cư kiết hạ của chư Tăng, thường tổ chức cho lạy hồng danh Phật. Hòa thượng Tuyên Hóa khi Ngài còn hiện tiện, ai muốn phát tâm làm đệ tử Phật, Ngài đều cho lạy hồng danh Phật 1000 lạy, rồi mới làm lễ quy y, nhờ vậy người con Phật gột rữa thân tâm được trong sạch khi mới vào đạo. Pháp môn lạy Phật, Bồ tát mang lại lợi ích thiết thực cho cả thân và tâm. Thân thể khỏe mạnh và có khả năng ngăn ngừa các bệnh tật của thời đại. Tinh thần sáng suốt an lạc và sống an vui hạnh phúc. Đây là một pháp môn thực tiễn mầu nhiệm, theo tinh thần khoa học hiện đại có sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhân quả rõ ràng. Thân chuyển động hài hòa đồng loạt làm cho máu huyết trong cơ thể lưu thông, nuôi dưỡng các tế bào hoạt động đẩy các độc tố ra ngoài. Miệng niệm danh hiệu Bồ tát, tâm lắng nghe từng âm thanh vi diệu của Bồ tát, tạo ra sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Ai bây giờ có nhân duyên với Bồ tát Quán Thế Âm, xin hãy cùng chúng tôi đồng hành, để được kết nối yêu thương và sẻ chia cuộc sống.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận

Kiến thức 19:47 24/04/2024

Khi Phật còn tại thế, nhiều vị tỳ kheo đã chứng quả A La Hán nhờ quán về đề mục, “thân này gồm có 32 phần thể trược trong cơ thể”. Nhờ quán như vậy, nên ta bớt tham đắm vào sắc thân ô uế; do đó, ta không si mê, dính mắc, tham đắm vào ái dục.

Niệm một danh hiệu Phật tiêu 80 ức kiếp sanh tử trọng tội

Kiến thức 16:00 24/04/2024

Tâm động một niệm là đã gieo một hạt giống trong 10 pháp giới. Vậy mà có thể không trân trọng mỗi khi khởi niệm sao?

Ái là gốc của mọi vấn đề và nỗi khổ

Kiến thức 15:20 24/04/2024

“Phàm có khổ nào khởi lên, tất cả khổ ấy khởi lên lấy tham ái làm căn bản, lấy tham ái làm sở nhân. Tham ái là căn bản của khổ.”

Nói về Phật tánh (Phật tính)

Kiến thức 12:50 24/04/2024

Phật tính là từ quan trọng bậc nhất trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại thừa, các kinh luận Đại thừa đều đề cập đến Phật tính.

Xem thêm