Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 04/03/2021, 16:22 PM

Thế nào là thiền nhập thế? (II)

Tư tưởng nhập thế của phái thiền Trúc lâm Yên Tử qua tìm hiểu nghiên cứu ta thấy thật rõ ràng: với giáo lý Phật thì cần (Bi - Trí) tức từ bi và trí huệ.

Thế nào là thiền nhập thế? (I)

Đôi nét về tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Đề cập về vua Trần Nhân Tông và Sơ tổ Trúc Lâm thiền phái đã có không ít bài viết của các tổ thầy và học giả nghiên cứu khá sâu sắc. Ở đây chỉ xin điểm qua đôi nét về tư tưởng thiền nhập thế của trần Nhân Tông để chúng ta cùng tìm hiểu và suy ngẫm.

Xét về thiền học nói chung cũng như tư tưởng thiền nhập thế của Trần Nhân Tông có thể được diễn tả trong “Thiền Lâm thiết Chủy ngữ lục”, “Đại hương hải án thi tập”. Những tác phẩm này không còn, nên chúng ta chỉ có thể tìm hiểu tư tưởng của Trần Nhân Tông qua các tác phẩm trích dẫn lời nói của Ngài được chép lại trong “Tam tổ thực lục” và “Thánh đăng lục”, thêm vào đó là các bài kệ, bài thơ của Ngài còn lưu lại và qua cuộc đời của Ngài.

Sau đây xin điểm qua đôi nét về tư tưởng thiền học có tính nhập thế của Trần Nhân Tông.

1. Sự dung hợp đạo với đời:

Theo quan niệm thông thường thì một khi đã xuất gia người tu sĩ Phật giáo chỉ lo chú tâm vào thiền định, tụng kinh niệm Phật, thuyết pháp cho đại chúng và buông bỏ hết mọi duyên thế tục. Vua Trần Nhân Tông sau khi đã lãnh đạo đại thắng hai cuộc xâm lăng của Nguyên – Mông, Ngài thoái vị để làm Thái Thượng Hoàng và truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông. Ngài xuất gia tu theo hạnh đầu đà. Tu hạnh đầu đà là lối tu khổ hạnh (từ bỏ chuyện xác thịt) để đi khất thưc, khất thực có nghĩa là thí chủ cho cái gì thì ăn cái ấy, không phân biệt chay hay mặn mục đích chỉ nhằm tìm kiếm chân lý giải thoát. Và Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã thành lập Thiền phái Trúc lâm Yên Tử, Ngài là Sơ tổ của thiền phái này. Nhưng sau khi xuất gia, mặc áo cà sa tu ở Yên Tử, với cương vị là Thái Thượng hoàng, Ngài đã không sao lãng việc nước mà vẫn “giúp” vua con Trần Anh Tông điều hành việc nước. Theo tài liệu lịch sử, Ngài đã tiếp phái đoàn ngoại giao Trung Hoa, lo việc bình định sự quấy phá của Ai Lao, và quan hệ ngoại giao với Chiêm Thành, giữ gìn mối bang giao tốt đẹp giưa hai nước để rồi hứa gả Công chúa Huyền Chân cho vua Chế Mân - Chiêm Thành.

the-nao-la-Thien-nhap-the 5.jpg

Như vậy, trong giai đoạn xuất gia, làm Sơ tổ thiền phái Trúc lâm Yên Tử Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã không sông cuộc đời tu hành theo lối buông bỏ tĩnh dưỡng. Thực tế này cho chúng ta thấy ở Ngài không có sự phân biệt giưa đạo với đời, giữa tại gia với xuất gia, giữa xuất thế với nhập thế. Đây là điều chủ yếu của tư tưởng không phân biệt tại gia và xuất gia của thiền phái Trúc lâm Yên Tử dưới thời Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Dòng thiền thế tục này rất được các vua, quan và quảng đại quần chúng theo rất đông. Trong “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông đã phản ánh đúng điều này:

“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết sức,

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật khá đồ công”.

Qua đây càng thấy rõ tư tưởng dung hợp xuất thế của Phật giáo với tư tưởng nhập thế của Nho giáo thời quân chủ bấy giờ.

Sư ông Trúc Lâm giảng về "Tuệ giác của Đức Phật"

2. Thiền phái Trúc lâm và tinh thần “hòa quang đồng trần”:

Đọc lịch sử nói chung và Phật giáo đời Trần, chúng ta thấy tinh thần hòa đồng giữa vua tôi và chúng dân thật khăng khít hiếm thấy. Đó là sự thủy chung trong hoạn nạn cũng như vui sướng đều được chia sẻ với nhau. Nhờ tinh thần đoàn kết dân tộc ấy, mà Trần Nhân Tông đã huy động được sức mạnh quân dân Đại Việt đập tan hai cuộc xâm lăng hung hãn Nguyên - Mông (1285-1288) đem lại thắng lợi an bình vẻ vang cho dân tộc.

Tinh thần “hòa quang đồng trần” là không phân biệt các thành phần xã hội: không phân biệt tuổi tác, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc. Trong hàng ngũ quân đội chúng ta thấy bao gồm giới hoàng tộc như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tung, Trần Quang Khải; cho tới giới bình dân như Phạm Ngũ Lão; giới nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng; giới tuổi trẻ như Trần Quốc Toản; giới bô lão như “Hội nghị Diên Hồng”; giới dân tộc thiểu số như Hà Đặc, Hà Chương tất cả với tinh thần “quyết chiến quyết thắng” trước giặc ngoại xâm.

Trong quảng đại quần chúng, đạo Phật tin tưởng và nương tựa vào đức Phật cho nên ở đâu cũng thấy chùa thờ Phật. Đạo Phật gieo duyên như chất keo sơn kết nối “tâm” giữa nhà tu hành, với giới hoàng tộc, giới vua quan và đại chúng. Điều này trong văn bia của Lê Quát tại chùa thiện Phúc thuộc Bái thôn - Bắc Giang năm 1270, sử gia Ngô Sĩ Liên đã chép lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ta thấy nội dung dưới đây:

“Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao được người ta tin sâu đến thế. Trên từ vương công cho đến dân thường, hễ bố thí vào việc Phật thì tuy đổ hết tiền của cũng không sẻn tiếc, ví như ngày nay gửi gấm vào tháp chùa thì lòng hớn hở như cầm được khoán ước để hưởng được sự báo ứng về sau. Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến các châu phủ, cho đến các thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà theo, không thề mà tin. Chỗ nào có nhà ở, tất chỗ đó có chùa Phật, hỏng rồi lại xây, hư rồi lại sửa. Lâu đài chuông trống so với dân cư chiếm đến phần nửa. Đạo Phật thịnh rất dễ dàng, mà sự tôn sùng lại rất lớn. Ta tuổi trẻ đọc sách tức (NSL) khảo sát xưa nay cũng hiểu sơ được đạo Thánh hiền để giáo hóa dân này, mà rốt của chưa thể làm cho một làng tin theo, từng dạo xem núi sông, dấu chân in dấu đến nửa thiên hạ mà tìm cái gọi là nhà học văn miếu, thì chưa từng có thấy một nơi. Ta do thế rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật, bèn viết ra đây để tỏ lòng” (trích dẫn trong “Toàn tập Trần Nhân Tông” Thiền sư Lê Mạnh Thát - Nxb.Tp.HCM - 2000).

the-nao-la-Thien-nhap-the 3.jpg

Đọc lịch sử nước nhà chúng ta thấy đất nước ta ảnh hưởng văn hóa Hán phương Bắc hàng nghìn năm. Thời Trần mặc dù đạo Phật được coi là Quốc giáo, nhưng Phật giáo với Nho giáo, Lão giáo vẫn song song tồn tại. Đây là sự dung hợp bởi “hòa quang đồng trần”. Hòa quang mà vẫn có ngôi thứ, đó là nét đặc trưng tồn tại khách quan. Nhưng tư tưởng về văn hóa dân tộc của vua Trần Nhân Tông vẫn thao thức bởi lòng tự tôn đất Việt.

Đọc qua các tác phẩm văn thơ, cũng như ở những tác phẩm đề cập về giáo lý đạo Phật ta thấy Trần Nhân Tông đã dùng chữ Quốc âm-chữ Nôm để diễn tả tư tưởng của mình như trong bài phú “Cư trần lạc đạo”. Thực tế này, theo các nhà nghiên cứu nó chung thì đây là bước đầu của nền “văn chương Quốc âm” trong lịch sử văn học Việt Nam. Việc sử dụng chữ Quốc âm - chữ Nôm là một hướng đi trong tinh thần thoát nô lệ về văn hóa phương Bắc; mà nay nói gọn là thoát Trung. Tại sao người viết muốn đề cập vấn đề này ngang đây, bởi lẽ “hòa quang đồng trần” tức tinh thần nhập thế của Phật giáo Trúc lâm không thể hiểu thuần túy cực đoan là “trộn lẫn”; mà đây là bản chất tinh hoa hay gọi khác là minh triết Bi - Trí của Phật giáo. Điều này trong triết học phương Tây hiện đại cũng đề cập triết lý (là nó nhưng không phải là nó) để nói về điều này.

Trần Nhân Tông rất am tường nội điển và ngoại điển. Chính cuộc đời của Ngài là minh chứng rõ sự thực hành một đời sống vùa xuất thế của một người tu vừa nhập thế giúp đời, giúp nước. Chả thế mà có câu “làm vua giúp được trăm họ, làm Phật độ được muôn loài”. Với tư tưởng “Phật giáo bất ly thế gian giác” như thế; nên khi Sơ tổ Trần Nhân Tông trao truyền y bát cho tổ Pháp Loa để nối tiếp làm vị tổ thứ hai của dòng thiền Trúc lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông đã trao cho Pháp Loa “100 cuốn kinh sử ngoại thư và 20 hộp kinh điển Phật giáo”.

Theo sách “Tam tổ thực lục” và “Thiền tông chỉ nam”. Khi trao truyền y bát để kế thừa dòng thiền Trúc lâm Yên Tử, Pháp Loa (nhị tổ) khi ấy mới 24 tuổi. Đại sư còn rất trẻ. Sơ tổ Trúc lâm đã dăn dò Đại sư Pháp Loa phải mở rộng việc học bên trong cũng như bên ngoài Phật giáo. Đời phải dung thông với đạo như chính cuộc đời của mình đã kể thừa tư tưởng thiền tông của ông nội mình là Trần Thái Tông cũng như tinh thần nhập thế của Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Tiểu sử Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông

Từ thực tế này, qua tìm hiểu và nghiên cứu học giả Nguyễn Vĩnh Thượng khi nhận xét và đánh giá tư tưởng thiền học của phái thiền Trúc lâm Yên Tử đã cho rằng: “Mẫu người lý tưởng của thiền phái Trúc lâm là mẫu người dung hợp giữa con người trượng phu của nho giáo với con người Bồ-tát của Phật giáo. Mẫu người này rất khác với mẫu người của dòng thiền của dòng thiền trong Phật giáo Trung Hoa. Mẫu người này được phản ánh rất rõ trong “Cư Trần lạc đạo phú”:

“Sạch giới lòng, dồi giới tướng,

Nội ngoại nên Bồ-tát trang nghiêm.

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha.

Thi đỗ mới trượng phu trung hiếu.”

Giới lòng ở đây là tâm giới gọi tắt của “Bồ-đề tâm giới” hay cũng gọi là bồ tát giới. Đây là một giới đức đặc biệt, dùng chung cho người xuất gia và tại gia. Còn giới tướng của Phật giáo là không trộm cắp, không tà dâm, không sát sinh, không nói dối. Và trượng phu, trung hiếu được hiểu là người đàn ông tài giỏi, có chí khí lớn; theo nho giáo là hết lòng với vua với nước, hết lòng với cha mẹ đó là, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Như vậy, mẫu người trượng phu và mẫu người Bồ tát cần kết hợp với nhau để tạo thành mấu người của Phật giáo. Đó là tư tưởng của thiền phái Trúc lâm Yên Tử: khi học kinh điển Phật giáo thì không loại bỏ những cái học bên ngoài Phật giáo, và ngược lại những môn học bên ngoài không loại bỏ những môn học Phật giáo. Khi Trần Nhân Tông nhấn mạnh đến “tâm giới” thì không phân biệt xuất gia hay tại gia. Theo Nguyễn Vĩnh Thượng cho rằng, “Nho giáo tồn tại ở Việt Nam thông qua mẫu người Phật giáo nhà Trần dung hợp nho giáo như là một công cụ phục vụ lợi ích Phật giáo và ngược lại”. Vua Trần Nhân Tông - Sơ tổ Trúc lâm thiền phái đã đặt kỳ vọng vào Đệ nhị tổ Pháp Loa sẽ nối tiếp tinh thần xuất thế dung hợp với nhập thế”. Đó là tinh thần của Pháp thiền Trúc lâm nhập thế Yên Tử hay còn gọi là Như Lai thanh tịnh thiền và sau này gọi gọn theo khẩu ngữ là Thiền tông.

Đôi lời lạm bàn

Thật may mắn chúng ta được kế thừa dòng thiền nhập thế Trúc lâm Yên Tử. Đây là phái thiền tiếp nối của dòng thiền Thích Ca Văn hay còn gọi là Như Lai thanh tịnh thiền.

the-nao-la-Thien-nhap-the 4

Căn cứ lịch sử dòng thiền này, tính từ khởi phát đến đời tổ Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28, sau đó dòng thiền này được nối tiếp sang các nước phương Đông đó là Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan. Như vậy, dòng thiền Thích Ca Văn ở Ấn Độ gồm có 28 đời, Trung Hoa 5 đời và Việt Nam có 3 đời. Đến Sơ tổ Trúc lâm Yên Tử - Trần Nhân Tông kế tiếp là đời thứ 34 và thêm hai đời tổ nữa là Pháp Loa và Huyền Quang thì dòng thiền này lại ẩn; bởi vậy khi tìm hiểu và nghiên cứu dòng thiền này không ít tổ thầy cũng như nhiều học giả đặt câu hỏi, tại sao dòng thiền nhập thế Trúc lâm Yên Tử đến đời tổ Huyền Quang không thấy đề cập đến người tiếp nối? Câu hỏi này được đặt ra không phải chỉ ở các tổ thầy và tăng ni mà các học giả nghiên cứu tôn giáo đều thao thức.

Với kiến thức bất toàn, người viết bài này thiển nghĩ: Với đạo Phật thì Pháp ẩn, pháp hiện - theo kinh điển giáo lý mà ta đẫ đọc đây là chuyện thường tình của thế pháp. Bởi thời mạt thì pháp ẩn; chứ phải đâu pháp mạt. Đến khi (đạo đức) duyên lành tới thì pháp lại hiện; đó mới là Phật pháp vi diệu nhiệm mầu.

Do ảnh hưởng ngàn năm (nô dịch) văn hóa phương Bắc, tài liệu sử sách thường bị nhân hóa, thiên hóa sách đâu còn nhiều mà so sánh. Dẫu kinh sách của tổ thầy cũng như của cha ông bị mai một; trong đó có đời Trần và đặc biệt là của Sơ tổ Trúc lâm Yên Tử Trần Nhân Tông cũng không ngoài sự mất mát đó. Song, những gì còn sót lại dẫu không nhiều, nhưng cũng đủ để chúng ta tin tưởng vào tư tưởng Phật giáo Trúc lâm. Đó là một dòng thiền nhập thế minh triết tương thích với khoa học không hề xa lạ với chánh pháp. Bởi pháp Như Lai thanh tịnh cũng có nghĩa là Thiền thanh tịnh. Nói đến đây chắc sẽ có không ít người đặt câu hỏi nghi vấn: Đã gọi là thiền nhập thế (tức thế tục) thì làm sao thanh tịnh đây! Xin thưa nhập thế mà thanh tịnh được đó mới là pháp khó tu. Bởi theo triết lý nhà Phật “phiền não là Bồ-đề”. Có dầy vò thì tuệ mới sinh. Thế nên hình thượng bông sen tỏa hương tinh khiết đó là chỉ cho “tâm” thanh tịnh không cấu nhiễm của chánh pháp. Vậy, Phật giáo lấy hình tượng đẹp của bông sen làm biểu tượng là đúng với cả nghĩa đen và nghĩa bóng “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Nói đến dòng thiền nhập thế Trúc lâm Yên Tử, nếu theo lịch sử thiền tông chắc không ít người nghĩ đến dòng thiền của Thích Ca Văn mà chúng đang đề cập ở đây. Và khi các học giả Phật giáo tìm hiểu và nghiên cứu dòng thiền này đều cho đây là thiền “biện tâm”. Bởi chánh pháp đức Phật dạy “nhất thiết duy tâm tạo”. Nếu người tu không “biện tâm” để giác ngộ mà cứ chỉ lo ngồi thiền dẹp vọng tưởng thì không khác gì “đấm bị bông” (ở đây không có ý phủ nhận pháp thiền ngồi). Vậy, thoạt nghe nói tới Pháp thiền nhập thế chắc nhiều người cho rằng phi lý bởi tính thiếu nghiêm túc thanh tịnh. Nhưng thực tế để “biện tâm” đối cảnh - buông xả mọi dính mắc được, thì đây là cả một quá trình tu (tỉnh thức) rất khó khăn. Ngược lại nếu người ngồi ở thiền đường mà thiếu trí huệ chỉ ngồi tu theo kiểu (ức chế tâm) thì muôn kiếp chẳng xa dời được tam giới, nói chi đến giải thoát sinh tử.

Triết lý tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông qua bài thơ Xuân muộn

Tư tưởng nhập thế của phái thiền Trúc lâm Yên Tử qua tìm hiểu nghiên cứu ta thấy thật rõ ràng: với giáo lý Phật thì cần (Bi-Trí) tức từ bi và trí huệ. Với thế gian (giặc cướp) thì cang cường không sợ hãi lo lắng phiền não. Thực tế này đã hun đúc lên chí khí đánh giặc của quân dân Đại Việt đã đập tan ba cuộc xâm lăng hung hãn nhất lịch mà giặc Nguyên - Mông gây ra thời bấy giờ.

Thiền “biện tâm”, có nghĩa là lúc nào cũng giữ cho tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sáng suốt thì mọi việc thấu tỏ không lầm lẫn. Phật nói “bất giác vô minh” tức vọng tưởng cấu nhiễm, mê lầm tham lam khi nó tác động từ trần cảnh, nếu chúng ta không cảnh giác thì: thọ, tưởng, hành, thức, tham, sân, si, mạn nghi… của tính người thôi thúc ta làm mọi điều xấu ác. Và đây là nguyên nhân sanh khởi mọi tham dục dẫn con người đến khổ đau không đường cùng. Nhập thế “biện tâm” như thế là lấy cái trí tuệ sáng suốt thường hằng để lần lần nhận ra tâm chân thật tưc (Phật tánh) của mình vậy. Để minh định cho tư tưởng thiền nhập thế mà Sơ tổ Trúc lâm đã chỉ bày, nhân đây chúng ta cùng nghe lại bài phú “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông:

“Ở đời vui đạo cứ tùy duyên

Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

Qua 4 câu kệ tổng kết cả bài phú của Sơ tổ Trúc lâm cho ta thấy; tuychẳng (ngồi thiền) nhưng luôn cảnh giác với “bất giác vô minh”. Thiền nhập thế, hay Như Lai thanh tịnh thiền là vậy. Rất minh triết và tương thích với khoa học ở mọi chiều kích.

Ngót 800 năm trôi qua, (Vua - Phật) Trúc lâm Trần Nhân Tông trên cơ sở lựa chọn đã tiếp nối dòng thiền này và bỏ qua các dòng thiền nhiều (hệ lụy phức tạp); bởi đây là dòng thiền nhập thế tinh hoa, minh triết. Qua tìm hiểu được biết, khi Ngài đi thuyết pháp ở Siêu Loại, ở Thiên Trường và nhiều nơi khác nhằm phổ độ dòng thiền này, Ngài luôn thao thức để dẹp bỏ các dâm từ, tức đền, miếu thờ tà thần không chánh pháp. Ngài không dung nạp các hình thức mê tín dị đoan, thuật số, xin xăm, bói quẻ và cúng kiến với sự mơ hồ thiếu chánh trí, chánh tư duy. Có nghĩa là Sơ tổ luôn luôn ngăn ngừa mê tín dị đoan đưa vào ngôi nhà chánh Pháp Như Lai. Điều này chúng ta thấy rất rõ thông qua hành trạng của Ngài cũng như các tác phẩm Ngài để lại. Thực tế những điều chúng tìm hiểu trên đã khẳng định một Phái thiền nhập thế riêng có ở Việt Nam luôn luôn trường tồn sức xuân nơi non thiêng Yên Tử.

Tài liệu tham khảo:

- Bài: Đường lối tu thiền của HT. Thiền sư Thích Thanh Từ  giảng tại tịnh xá Trung tâm - 1998 (phatgiao.org.vn).

- Tính nhập thế của Phật giáo Việt Nam qua thiền phái Trúc lâm Yên Tử của Thích Gia Quang (Nội san nghiên cứu Phật học số 6 năm 1992).

- Toàn tập Trần Nhân Tông – Lê Mạnh Thát (Nxb.Tp. HCM năm 2000).

- Phật giáo thời Trần (nhiều tác giả) (Nxb. Tôn giáo 2006).

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Chúng sanh và lục thông

Góc nhìn Phật tử 12:20 18/04/2024

Lục thông là sáu thần thông ưu việt hơn những năng lực bình thường của đa số chúng sanh nhân giới. Sáu thần thông bao gồm: 

Nếu không có sự cảm thông và thấu hiểu thì đừng thị phi thêm dầu vào lửa

Góc nhìn Phật tử 11:45 18/04/2024

Mỗi người có quyền riêng tư và sự riêng tư này phải được tôn trọng. Khi ta không biết rõ về người đó và cuộc sống của họ, ta không nên kể những câu chuyện của họ cho người khác.

Chết có đáng sợ hay không?

Góc nhìn Phật tử 07:33 18/04/2024

Chúng sanh ai cũng sợ chết nhưng mong muốn khỏi già, khỏi chết là những sự kiện không thể có được như Đức Phật đã dạy:

Linh bất linh tại ngã

Góc nhìn Phật tử 16:51 17/04/2024

Trong một lần học đạo với thầy (cố HT.Thích Thái Không), tôi hỏi: Thầy có tin chuyện linh ứng, mầu nhiệm không? Thầy cười khà khà nói, có câu “Linh bất linh tại ngã”, rồi giảng rằng: Linh ứng hay không là do ở bản thân mình.

Xem thêm