Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 10/12/2020, 18:56 PM

Tỉnh thức sống hiện tiền (I)

Đạo phật xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tỉnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tỉnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau?

Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tỉnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định. Để nghiên cứu điều này, chúng ta cần thể nghiệm được quan điểm sống hiện tại và sống tỉnh thức theo quan điểm triết học tây phương và đông phương. Tây phuơng là thuyết triết lý hiện sinh và đông phương là đạo Phật là tu tập theo Nguyên thủy từ Tứ niệm xứ rồi Đại thừa tu niệm Phật và Thiền tông, Mật tông.  

Sống tỉnh thức hiện tiền khác với hiện sinh

Chủ thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre và các triết gia chia làm 2 phe, một là vô thần như J.P Sartre, hai là hữu thần như Jaspers. Nhưng chủ trương của họ đều giống nhau. Sartre tuyên bố nội dung cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh là hiện hữu có trước bản chất. Điều này có nghĩa rằng điều quan trọng nhất đáng để lưu tâm đối với các cá nhân, đó là họ là các cá nhân - các thực thể (beings) hành động độc lập và tự chịu trách nhiệm, có ý thức (tức "hiện hữu") - hơn là những mác dán, vai trò, kiểu người được định trước khác (tức "bản chất").

Đạo phật xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền.

Đạo phật xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền.

Tỉnh thức để dạy con chuyển nghiệp thành nguyện

Cuộc sống thực tế của các cá nhân là những gì tạo nên cái có thể gọi là "bản chất thực sự" của họ, thay vì một bản chất có sẵn được quy kết một cách tùy tiện bởi người khác. Kế tiếp là quan niệm về sự phi lý: quan niệm về sự phi lý ngụ ý rằng không có ý nghĩa nào khác trong thế giới này ngoài ý nghĩa mà chúng ta mang đến cho nó. Sự vô nghĩa này cũng bao gồm cả sự vô đạo đức hay "sự bất công" của thế giới. Thứ ba là Kiện tính là một khái niệm được định nghĩa bởi Sartre trong tồn tại và hư vô là cái tự mình (in-itself), nó phân định cụ thể cho con người về các phương thức tồn tại và không tồn tại. Điều này có thể dễ hiểu hơn khi xem xét kiện tính trong mối quan hệ với chiều kích thời gian của quá khứ chúng ta: quá khứ của một người là cái mà người ta là, theo nghĩa rằng nó đồng kiến tạo nên cá nhân người đó. Dẫu sao, chúng ta sẽ bỏ qua một phần quan trọng của hiện thực (hiện tại và tương lai) nếu nói rằng một người chỉ là quá khứ của người đó, trong khi đó thì nói rằng quá khứ của một người chỉ là những gì họ từng là, sẽ tách rời quá khứ đó hoàn toàn khỏi người đó hiện giờ.

Cuối cùng là nhiều tác gia hiện sinh có được nhắc đến ở trên coi trọng chủ đề về sự tồn tại đích thực (authentic existence). Sự tồn tại đích thực liên quan đến ý tưởng cho rằng, người ta phải "tạo ra chính mình" và sau đó sống theo "cái mình" ("self") được tạo ra ấy. Ý nghĩa của tính đích thực (authenticity) là trong hành động, con người nên hành động như là chính mình (oneself), chứ không phải như là "những hành động của chính mình" ("one's acts") hay "các gen của chính mình" ("one's genes") hay bất kì bản chất (essence) nào khác yêu cầu mình (Trích đoạn: wikipedia). Theo HT.Thích Đức Nhuận so sánh chủ nghĩa hiện sinh Sartre với đạo Phật là sự khác biệt rõ ràng.

Đạo Phật cho rằng: Tất cả đều đã hiện hữu dù sự hiện hữu đó không có ý nghĩa gì hết. Vũ trụ hiện hữu bằng ba trạng thái:  trạng thái vô thường tương đối, trạng thái ngã chấp tự đối, và trạng thái chân như tuyệt đối. Trong cái cõi vô thường tương đối này, mọi hiện tượng đều tương quan với nhau hết sức mật thiết: “cái này sinh, thì cái kia sinh”, “cái này diệt thì cái kia diệt”. Sinh diệt của vạn hữu đều nằm trong luật nhân duyên.

Tất cả đều đã hiện hữu dù sự hiện hữu đó không có ý nghĩa gì hết.

Tất cả đều đã hiện hữu dù sự hiện hữu đó không có ý nghĩa gì hết.

Tiếng nói của Hiện sinh hôm nay đã gặp tiếng nói của đạo Phật ở điểm con người phải tự thể nghiệm lấy chân lý. Thế nhưng hiện sinh đã không mở lối cho tâm tư tự giải thoát. Hiện sinh không chấp nhận vấn đề tương quan giữa vạn hữu, cố kéo dài tình trạng đau khổ của bản thân thêm mãi ra ngoài cuộc đời và vũ trụ. Con người đã hiện sinh, khổ đau đã hiện hữu, khỗ đau lớn lên cùng với những tham vọng của con người. Càng nhiều tham vọng thì hô hào, thì mọi người từ ngàn xưa tới ngàn nay đều vẫn phải nhập cuộc rồi. Nhập cuộc để tìm lấy mình tìm ra đối tượng cuộc đời, thì cuộc tìm thấy mình ở Sartre tạm kể, là thấy theo khía cạnh chủ quan rồi đó. Nhưng đối tượng thì con người hiện sinh của Sartre tuyệt nhiên không tìm thấy một đối tượng nào, dù chỉ là đối tượng do chính mình bịa đặt ra. Con người của Sartre cũng đã có lúc đồng nhất với bản thể vô thức, nhưng đã bị ý thức của mình lôi lại. Vào với xả hội thì sợ bị tha nhân đánh cắp mất bản ngã.

Muốn lên cõi siêu hình làm Thượng đế thì thực tại nặng nề của sự sống đã kéo về với khổ đau, phi lý và ngay cả việc làm thượng đế kia cũng là một hành động thừa nữa. Quan niệm phi lý và hành động thừa thãi của Sartre đã làm cho tâm tư con người ngưng đọng trong trạng thái hãi hùng tuyệt vọng. Nhưng thức giác con người vốn là một hiện tượng động, dù chỉ là một hiện tượng vô hình. Như thế thức giác không phải là hư vô như Sartre quan niệm. Thức giác là một thực tại siêu hình, là một năng lực sống động luôn luôn vượt mọi giới hạn của cuộc sống vô thường, để đạt tới trạng thái thường hằng. Đặc tính của vô thường là nhân duyên tương sinh. Trong cái cõi nhân duyên tương sinh ấy có một hiện tượng độc đáo phát sinh, đó là hiện tượng chấp ngã của tâm thức. Không phải chỉ con người mới có khả năng chấp ngã, mà tất cả chúng sinh hữu tình hữu cảm đều có khả năng đó.

Tuy nhiên, ở con người khả năng thức giác vốn lớn mạnh hơn, vì lớn mạnh cho nên có nhiều tham vọng, nhiều tham vọng nên nhiều khổ đau. Tâm thức con người đang bị những đường roi hiện sinh quất xuống rất mạnh, bắt buộc tâm thức phải tự dao động, mà chỉ có sự dao động cùng tột của tâm thức thì tuệ giác của con người mới bừng dậy nổi. Ý thức con người không được quyền an nghĩ nữa. Phải vùng lên để tự thăng hóa. Đó là một thực trạng của thời đại.[1] Đó là sống tỉnh thức. Bây giờ chúng ta nhìn về đạo Phật với tỉnh thức và hiện tại.

Trong cái cõi vô thường tương đối này, mọi hiện tượng đều tương quan với nhau hết sức mật thiết: “cái này sinh, thì cái kia sinh”, “cái này diệt thì cái kia diệt”. Sinh diệt của vạn hữu đều nằm trong luật nhân duyên

Trong cái cõi vô thường tương đối này, mọi hiện tượng đều tương quan với nhau hết sức mật thiết: “cái này sinh, thì cái kia sinh”, “cái này diệt thì cái kia diệt”. Sinh diệt của vạn hữu đều nằm trong luật nhân duyên

Sống tỉnh thức theo chánh niệm và tỉnh giác, từ bi và tuệ giác, buông xả và không phân biệt

Tất cả là quay về tâm mà tu tập tức là Thiền. Trước khi tu thiền ta cần hiểu chánh tà để tỉnh thức là chánh niệm. Chánh được định nghĩa là cái gì đưa đến giải thoát sinh tử luân hồi là chánh cái gì ngược lại là tà. Trong Bát chánh đạo, đức Phật dạy có 8 cái chánh: kiến, tư duy, ngữ, nghiệp, mạng, tinh tấn, niệm, định. Niệm đó là Tứ niệm xứ.

Vậy làm sao ta biết đâu là chánh đâu là tà vì tà đi đến ác . Chánh đi đến đạo đức. Hiểu chánh là tập trung vào luật nhân quả và luật vô ngã của Phật mà phán đoán. Như vậy chánh được hiểu rõ qua phán đoán đạo đức vô ngã và nhân quả cùng với sự chuẩn xác khiêm tốn không kiêu ngạo hơn thua. Bất cứ người thầy tu nào giảng đạo của Phật đều được phán đoán qua các điều trên để biết chánh hay tà. Kế đến là từ bi tuệ giác. Sống với tâm từ bi là điều cần thiết của người con Phật. Nhưng từ bi mà thiếu trí tuệ thì từ bi ấy vô nghĩa. Trí tuệ thiếu từ bi là trí tuệ đi đến tà ác dễ dàng. Sống tỉnh thức là có cả hai. Trí tuệ còn gọi là bồ đề là nhìn rõ thực tướng các pháp.

Từ bi có vững chắc được do có nền tảng của tuệ giác và trí tuệ có phát triển được do nhờ ở từ bi. Thiếu trí tuệ từ bi chỉ là cảm xúc nhất thời, thiếu từ bi trí tuệ khó lòng thực hiện hiệu quả. Trí tuệ ở Phật giáo nguyên thủy là tứ niệm xứ, tứ diệu đế bát chánh đạo lý nhân duyên thất bồ đề phần đưa đến giải thoát giác ngộ. Trí tuệ ở phật giáo đại thừa là trí tuệ bát nhã và đức tin có dễ dàng hơn trí tuệ bát nhã. Trí tuệ này là tánh không là sự thật tuyệt đối nhận ra bằng trực giác thực nghiệm qua thiền định.

Đại thừa còn có tịnh độ niệm Phật A di đà, và Mật tông trì chú cũng như các tông phái khác. Muốn đạt trí tuệ chúng ta cần theo qui trình giới định tuệ, giữ giới để đi đúng đường chánh đạo, định để tập trung năng lượng vào niệm chánh và rồi tuệ giác hiện ra như mây tan thì trăng tỏ. Sống tỉnh thức còn gọi là Văn tư tu là có học kinh luận Phật, tư duy kinh luận đó và tu tập theo đúng thực hành. Kế đến là sống buông xả và không phân biệt. Buông xả không phải là buông bỏ. Buông xả với chữ xả trong thất giác chi ở giai đoạn cuối rất quan trọng và rất khó thực hành. Buông xả có tính cách chấp nhận các hoàn cảnh các pháp Như thị như nó đang là tự nhiên tự tại, nó chính là nó không gì ngoài nó ra . Không chấp cái tôi xen vào nó nên gọi là xả. Buông bỏ là từ chối nó, còn buông xả là chấp nhận nó hiện hữu với tính chất hiện tiền. Còn không phân biệt là gì? Một người bạn hỏi: vô phân biệt nhị biên chủ và khách, vậy thì đưa cho bạn hai chén cơm và chén đất bạn chọn ăn chén nào? Vậy bỏ nhị biên là sao? Đây là một sai lầm của rất nhiều người .

Phải thiền mới đạt Tánh giác, thiền Vô niệm là vô niệm phân biệt để Chân như niệm là Tánh giác bật lên và nhờ Tánh giác mà ta phân biệt đúng các pháp thực tướng của nó.

Phải thiền mới đạt Tánh giác, thiền Vô niệm là vô niệm phân biệt để Chân như niệm là Tánh giác bật lên và nhờ Tánh giác mà ta phân biệt đúng các pháp thực tướng của nó.

Phật tử Hoa Phước: Yêu thương bằng trái tim tỉnh thức

Tỳ kheo Viên Minh: “Các vị chớ có lầm tâm vô phân biệt là cái tâm không biết phân biệt sự sự vật vật muôn sai ngàn khác. Vô phân biệt chính là thấy pháp nào đúng như chính pháp đó chứ không thấy ra thành một tướng khác của vọng tâm. Như người sợ hãi thấy sợi dây thành con rắn, người mất búa thấy đứa bé hàng xóm là đứa ăn cắp. Đó chính là tướng phân biệt chủ quan của vọng tâm, nên gọi là tâm phân biệt. Thấy sợi dây đúng là sợi dây, thấy thằng bé như nó đang là, tức Vô phân biệt. Vậy tâm vô phân biệt chính là trí tuệ phân biệt rành rẽ phân minh pháp nào ra pháp đó.” Đức Phật tâm vô phân biệt sao lại dạy tránh ác làm lành (Sabba pàpassa akaranam kusalassa upasampadà - Dhammapada)?

Lão Tử tâm vô phân biệt sao lại nói có Đạo thường, Đạo không thường (Đạo khả đạo phi thường đạo - Đạo Đức Kinh)? Ngài Huệ Năng tâm vô phân biệt sao lại nêu pháp đối trong Phẩm Phú Chúc (Pháp Bảo Đàn Kinh Thích duy Lực dịch)? Phẩm này là giai đoạn cuối đời lục tổ Huệ Năng trước khi chết đã truyền cho các đệ tử phép truyền đạo Phật, với nhắn nhủ rất quan trọng: nếu không có phép đối đãi thì ba pháp nhị biên và trung đạo đều dứt chẳng có chỗ nương tựa. Do đó có Tam khoa là Ấm - Nhập - Giới: có rất nhiều pháp đối nhau. Lại nói về Bất lập văn tự mà kẻ nào chấp là không có văn tự là không có kinh luận là phỉ báng Phật, chấp tự tánh chẳng cần tự chứng là điều sai lầm. Phật tánh vốn chẳng sanh diệt nên khi người ra đi các môn đệ không nên rơi lệ. Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận có đi ngược yếu chỉ thiền tông không? khi định nghĩa trí tuệ là “Nãi chí thiện ác giai năng phân biệt”. Pháp vốn “nhậm trí tự tánh quỹ sanh vật giải” nên “pháp trụ pháp vị” rất phân minh. Phân biệt là tánh mầu nhiệm của trí tuệ nên gọi là tánh giác. Chính vô minh thiếu khả năng phân biệt nên chỉ biết phán đoán chủ quan theo lý trí vọng thức và bóp méo sự thật. Ngược lại, trí tuệ phân biệt minh bạch nên mới “thị pháp trụ pháp vị, chư Phật thường hiện tiền”.  Phán đoán luôn luôn đi đến kết luận, chia phân và rập khuôn công thức, quan niệm. Còn phân biệt là liễu tri (Pajànàti) bằng trí tuệ lặng lẽ chiếu soi và phản ánh trung thực vạn pháp đa thù mà vẫn an nhiên tự tại. Đó chính là “tâm vô phân biệt” vậy.[2]

Với những lý luận trên chúng ta biết vô phân biệt là không phân biệt theo vọng tâm của mình, để trở về cái phân biệt minh bạch của chân tâm thấy được thực tướng các pháp bằng tánh giác, tức là phân biệt bằng Tánh giác nên phân biệt đúng đắn nhất. Kinh có câu thị pháp trụ pháp vị thế gian thường trụ pháp, chỉ rõ mọi pháp có một vị trí riêng biệt của nó đúng nhiệm vụ mà nó cưu mang và phân biệt biết đúng đắn vị trí của pháp đó là điều giác ngộ, chỉ có tánh giác mới phân biệt được điều này. Còn cái phân biệt của ý thức chúng sanh là phân biệt vọng tưởng vọng tâm cần phải bỏ đi. Làm sao làm được việc đó? Phải thiền mới đạt tánh giác, thiền vô niệm là vô niệm phân biệt để chân như niệm là tánh giác bật lên và nhờ tánh giác mà ta phân biệt đúng các pháp thực tướng của nó. Vậy vô nhị biên là phương tiện thiện xảo để đạt tánh giác và với Tánh giác ta phân biệt minh bạch nhất rõ ràng nhất. Bây giờ chúng ta chú ý đến sống hiện tiền qua thiền quán.

Chú thích: 

1. Vào đạo Phật qua lối ngỏ J P Sartre, tác giả: HT Thích  đức Nhuận, tham khảo: Thư viện Hoa sen

2. Vi Tếu hỏi và đáp 66, tác giả: Tỳ kheo Viên Minh, tham khảo: Trung tâm Hộ tông.

(Còn tiếp)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Câu chuyện có thật về sự chủ động tái sinh

Tư liệu 14:16 19/04/2024

Khoảng một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, giáo pháp ngày càng phát triển trong giới trí thức Ấn Độ. Một trong những luận sư xuất sắc thời đó là Chandra, người vừa có cái thư thả của bậc giác ngộ, lại có cái tài hùng biện và lý luận sắc sảo của một người trí thức.

Phương thức niệm Phật đời Trần

Tư liệu 08:23 18/04/2024

Không phải ngẫu nhiên đến đời Trần, phương thức niệm Phật được Thiền phái Trúc Lâm chú trọng trong việc vận dụng vào đời sống thực nghiệm tâm linh trong các Thiền đường nước Đại Việt.

Cha mẹ là ruộng phúc trong 3 cõi

Tư liệu 08:10 16/04/2024

Phật bảo Ngài A Nan rằng: - Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân cõi Thiên, Niết Bàn giải thoát, cũng do đó mà được thành tựu vậy!

Thiện duyên của người mẹ cúng dàng 500 vị Bích Chi Phật

Tư liệu 06:58 16/04/2024

Theo kinh Ðại phương tiện Phật báo ân, vào thời quá khứ xa xưa có một người nữ, do một bất thiện nghiệp ở tiền kiếp đã sinh ra làm con của một con nai cái. Nhưng cũng nhờ những nghiệp nhân tốt đẹp khác, cô gái do nai sinh ra có một tướng mạo đoan chính, tính tình bao dung, hiền thiện.

Xem thêm