Quán sáu căn là vô thường, vô ngã khi lâm bệnh

Nhân duyên ở Sāvatthi. Rồi một tỳ-khưu đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn: “Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn, có một tỳ-khưu mới thọ giới, ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến tỳ-khưu ấy vì lòng từ mẫn.”
Rồi Thế Tôn sau khi nghe những từ “mới thọ giới” và “bệnh”, và biết được tỳ-khưu ấy ít được người biết đến, liền đi đến tỳ-khưu ấy. Tỳ-khưu ấy thấy đức Phật từ xa đi đến, liền gượng dậy trên giường.
Thế Tôn liền nói với tỳ-khưu ấy: “Thôi, này tỳ-khưu, ông chớ có gượng dậy trên giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi tại đấy.”
Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói với tỳ-khưu ấy:
“Này tỳ-khưu, ông có kham nhẫn được không?
Ông có chịu đựng được không?
Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng trưởng?
Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?”
“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng. Con cảm giác các khổ thọ rất mãnh liệt. Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không giảm thiểu.”
“Này tỳ-khưu, mong rằng ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.”
“Bạch Thế Tôn, con có nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận.”
“Này tỳ-khưu, mong rằng ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận về giới hạnh của mình.”
“Bạch Thế Tôn, con không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận về giới hạnh của mình.”
“Này tỳ-khưu, nếu đối với giới hạnh của mình, ông không có gì đáng để khiển trách, thì tại sao ông có nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận?”
“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng Pháp mà Thế Tôn đã giảng dạy không phải vì mục đích thanh tịnh trì giới.”
“Này tỳ-khưu, nếu ông hiểu rằng Pháp mà Ta đã giảng dạy không phải vì mục đích thanh tịnh trì giới, thì ông hiểu Pháp mà Ta đã giảng dạy là vì mục đích gì?”
“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng Pháp do Thế Tôn đã giảng dạy là để ly tham.”
“Lành thay, lành thay, này tỳ-khưu! Lành thay, này tỳ-khưu, ông hiểu rằng Pháp do Ta đã giảng dạy là để ly tham. Pháp do Ta đã giảng dạy là để đoạn tận ái.
“Ông nghĩ thế nào, này tỳ-khưu, mắt là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Tai là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Mũi là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Lưỡi là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Thân là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Ý là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Thấy vậy, này tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: ‘Ta đã được giải thoát.’ Vị ấy biết rõ: ‘Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’”
Thế Tôn thuyết như vậy, tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, tỳ-khưu ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì có sinh khởi, tất cả cái ấy đều có đoạn diệt.”
Trích từ Kinh Bệnh (Paṭhamagilāna Sutta, SN 35.74).
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Đi về phía giáo pháp của Như Lai
Phật giáo thường thứcHãy đi cho kịp trước khi mặt trời lặn. Lời nhắc ấy trong giáo pháp tối hậu vang lên như tiếng chuông cảnh tỉnh.
Buông dính mắc vào “có” và “không”
Phật giáo thường thứcTrong đời sống hằng ngày, đa phần chúng ta đều giống nhau: khi có thì bám vào cái có, khi không thì lại bám vào cái không.
Tại sao tôi chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần?
Phật giáo thường thứcKhi thành lập Thiền viện, tôi nhìn lại kỹ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam, những mốc nào những điểm nào thích hợp với hoàn cảnh, với đất nước hiện tại để chọn làm cái mốc son; chúng ta tu, truyền bá, đem ra phổ biến cho mọi người thấy biết mà ứng dụng.
Xem thêm















