Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 3)
Làm sao có được con mắt xuất thế gian để nhìn thấy Nghiệp căn tức Nhân đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước ? Hay rõ ràng hơn, làm sao có được khả năng quán chiếu thấy được Chân kinh trong khi mình chỉ có hai con mắt để nhìn thấy chữ viết kinh và hai cái tai để nghe thuyết pháp?
3. Phân tách sự hội nhập chân kinh
Chân kinh là Chánh pháp, khác lời nhưng cùng một nội dung. Khi nói Chân kinh là hàm ý nội dung chân thực do từ Đức Phật nói ra, Kinh là lời nói do Đức Phật nói ra. Khi nói Chánh pháp là hàm ý tính cách chân chánh của Pháp Bảo, khế hợp với Chân đế tức Chân lý tuyệt đối.
Phân tách sự hội nhập Chân kinh chỉ nói đến giai đoạn thứ hai Hiện thời hội nhập là cách phân tách với con mắt thế gian, mức độ quán chiếu còn thiếu chiều sâu, chỉ thực hiện trong thời gian hiện tại xảy ra sự việc, không quán về quá khứ. Sự phân tách này chỉ đem lại việc nhìn thấy Quả kết thành trong thời hiện tại mà không nhìn thấy Nhân đã gieo trồng trong thời quá khứ. Sự phân tách đầy đủ rốt ráo cần thực hiện với con mắt xuất thế gian có khả năng thâm quán chiếu suốt không gian và thời gian, nhận định rõ ràng sự khác nhau giữa Nhân, Duyên, Quả và Báo cũng như mối liên hệ tương ứng mật thiết giữa bốn yếu tố này. Đó là sự vận hành diễn tiến thành tựu một sự việc, một hiện tượng, Phật học gọi là Pháp hay Sự. Sự vận hành gọi là Lý, cũng gọi là Đạo.
Một câu hỏi then chốt: Làm sao có được con mắt xuất thế gian để nhìn thấy Nghiệp căn tức Nhân đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước ? Hay rõ ràng hơn, làm sao có được khả năng quán chiếu thấy được Chân kinh trong khi mình chỉ có hai con mắt để nhìn thấy chữ viết kinh và hai cái tai để nghe thuyết pháp? Câu giải đáp: Con mắt thế gian chỉ có khả năng nhìn thấy chữ viết kinh, cái tai thế gian chỉ có khả năng nghe được lời thuyết pháp giảng kinh. Khả năng này gọi là thức, con người thế gian bình thường ai cũng có tám khả năng nhận biết gọi là Bát thức (2). Con mắt xuất thế gian, cái tai xuất thế gian có khả năng nhận biết sâu xa, chính xác và trọn vẹn, do đó nhận biết ra được Chân kinh, hiểu thấu Chánh pháp. Khả năng này gọi là trí tuệ, nói tắt gọn là trí.
Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 2)
Ảnh minh họa.
Theo từ ngữ, Trí là sự hiểu biết thông suốt bao trùm khắp cả, dân gian thường gọi là trí thông minh, lý trí, óc sáng suốt bén nhậy linh động, nhận thức tinh vi tế nhị. Phật học chia Trí tuệ thành năm bậc gọi là Ngũ trí (3). Người có khả năng hội nhập Chân kinh, nhận thấy lời kinh mà hiểu ra được ý kinh là người có công phu tu tuệ, trau dồi tuệ lực đạt đến mức độ chuyển hóa Bát thức người thế gian ai cũng có thành ra Ngũ trí chỉ người giác ngộ mới đạt tới.
Câu giải đáp này rõ ràng mạch lạc nhưng chưa thông suốt đầy đủ vị làm nẩy sinh ra câu hỏi thứ hai: Làm sao để chuyển hóa từ Thức thành ra Trí, từ Vô minh mê mờ thành ra Giác ngộ sáng suốt ? Sự chuyển hóa này diễn tiến ra sao? Do động lực nào? Tha lực cầu xin Phật ban ân cứu độ hay tự lực hành trì các pháp môn theo học? Có nhiều câu giải đáp khác nhau:
Chuyển hóa từ Bát thức thành ra Ngũ trí
Theo Pháp tướng tông chỉ có Tứ Trí, sự chuyển hóa từ Bát Thức thành ra Từ Trí như sau:
- Năm thức đầu (Nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức và thân thức) chuyển thành Thành sở tác trí, cũng gọi là Thành sự trí.
- Thức thứ sáu Ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí.
- Thức thứ bảy Mạt-na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí.
- Thức thứ tám A-lai-da thức chuyển thành Đại viên kinh trí.
Theo Mật tông có thêm trí thứ năm là Pháp giới trí. Đây là trí tuệ có khả năng thấu suốt trực tiếp Pháp tánh của vạn pháp không cần nương theo Pháp tướng. Chính vì lý do này Pháp tướng tông không thừa nhận Pháp giới trí và lập luận Bát thức chuyển hóa thành Tứ trí. Trong Phật học khi dẫn chứng về các loại trí tuệ thường nói đến Ngủ trí nhiều hơn là Tứ trí. Xin xem dẫn giải chi tiết ở chú thích 2 và 3.)
Chuyển hóa theo thứ bậc trong Ngũ nhãn
Theo từ ngữ Ngũ nhãn là năm loại mắt, năm cách nhìn. Ở đây nghĩa theo Phật học là năm thứ bậc nhận thức vạn pháp, năm trình độ hiểu biết về mọi sự việc, năm nhãn quan, năm quan niệm về nhân sinh và vũ trụ. Năm cách nhìn này kể từ hàng ngũ phàm phu đến bậc viên mãn Phật quả, nghĩa là từ trình độ người thường mê muội đến trình độ cao siêu nhất chỉ thấy ở chư Phật. Năm nhãn quan gồm có:
1. Nhục nhãn: Nhận biết nông cạn của giới phàm phu mê muội, chậm lụt. Theo từ ngữ là con mắt thịt như dân gian thường nói Người trần mắt thịt, có mắt như mù có tai như điếc. Trường hợp nói ngoa Có mắt như mắt lợn luộc. Thành ngữ nói Ngu như lợn, ở đây còn tệ hơn là con lợn đã đem luộc không được như con lợn đang còn sống.
2. Thiên nhãn: Nhận biết siêu nhiên của chư Thiên, nhìn thấy cả quá khứ vị lai, Địa ngục Niết-bàn...
3. Pháp nhãn: Nhận biết thấy các pháp hiện hữu có đa dạng, một hiện tượng thay đổi nhiều trạng thái sắc tướng khác nhau...
4. Tuệ nhãn: Nhận biết xuyên qua Pháp tướng thông suốt đến Pháp tánh Chân Không của vạn pháp, nghĩa là nhận ra chân lý tuyệt đối trong mọi sự kiện. Phật học gọi là thực chứng tánh Không, thấy được Chân Như, thấy được Như Lai.
5. Phật nhãn: Nhận biết thấu suốt cả vạn pháp, không còn một trở ngại nào từ tánh Chân Không duy nhất đến tướng ứng hóa vô số vô lượng, bao trùm tất cả pháp giới vô biên vô cùng. Phật nhãn được gọi bằng nhiều danh xương khác, thường nói đến là Phật trí, Phật tuệ, Nhất thiết chủng trí, Chánh biến trí... (còn tiếp)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam
Nghiên cứuKinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứuCó thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứuPhật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứuThời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Xem thêm














