Bất nhị là triết lý đông phương (I)
Khi chúng ta nói đến khoa học thì nói đến tây phương, nhưng khi chúng ta nói đến triết lý tâm linh thì đông phương. Tại sao vậy? Vì đông phương có cuộc sống không hoàn toàn duy lý, mà là triết lý bất nhị.
Ý nghĩa của hai chữ 'nhất thời' trên Kinh
Tức là cái này có lòng trong cái kia hòa nhập tuy hai là một tuy một là hai. Tây phương phân tích so sánh phân biệt rõ ràng sống trong lý trí nhị nguyên tính. Ngược lại đông phuơng nhất là Lão giáo thì có sự hoà nhập không phân biệt ranh giới nên gọi là bất nhị.
Thiền tông luôn luôn nhấn mạnh “Tánh không có hai” cho đó là ý thức phân biệt nên che mờ tánh giác của chúng sanh. Vì thế thiền là vén bỏ đi ý thức vô minh này. Câu hỏi đặt ra là tánh không phân biệt này cần thiết khi nào? Và nó thật chất là gì? Nên nghiên cứu sâu xa về nó. Kể từ khi Lục Tổ Huệ Năng đưa ra phép tu tập vô niệm cho thiền tông thì tánh vô phân biệt là cốt lõi của thiền. Vô niệm là vô là vô phân biệt thì niệm là niệm Chân Như sẽ hé lộ ra mà không cần hành giả phải làm gì hết gọi là đốn ngộ. Lý thuyết này được thịnh hành một thời trong đạo Phật, sau đó bị tranh cãi với phép tu của Thần Tú phía bắc Trung Hoa nên kết hợp lại Nam Bắc tông là đốn ngộ rồi tiệm tu. Vậy tánh vô phân biệt là gì và làm sao có được? Có phải chỉ có thiền tông mới chú trọng tánh vô phân biệt? Vô phân biệt là không còn ý thức vậy tương đương là người bị bịnh thần kinh lú lẫn hay mộng du hay down syndrome?
Thiền Lâm Tế và Tào Động kế nối thiền Lục Tổ Huệ Năng cho đến ngày nay có đạt được như lý thuyết này hay không? Huệ Năng dùng thiền để kiến tánh còn các thiền khác là khán tâm, khán tâm là cố gắng nhìn sâu vào tâm, nỗ lực nhìn, còn kiến là thấy tự nhiên như mây tan thì trăng hiện. Kiến thì không cần phân tích suy nghĩ đắn đo nên gọi là vô phân biệt. Giác ngộ có thể từ tiếng hét, tiếng chảy của dòng suối, tiếng rớt của viện gạch, lý do tuệ giác có sẵn trong tâm ta. Chỉ cần vô bám trụ, không mong cầu, không chấp trước, không phân tích là ngộ đạo. Trong khi các đường lối tu tập khác là: giới định tuệ, văn tư và tu tức là giới luật đi đến định do thiền chỉ rồi quán chiếu đi đến tuệ giác, văn là hiểu biết do học hỏi rồi suy tư phân tích và áp dụng tu tập. Huệ Năng bác bỏ tất cả các điều này định và tuệ có thể nhập là một, không cần có văn tự nên bất lập văn tự để học hỏi, không cần tư duy suy nghĩ vì suy nghĩ là ý thức phân biệt nên gọi là vô phân biệt. Đây đúng là cuộc cách mạng về Thiền. Nhưng kéo dài một thời gian đến nay thì lý thuyết này yếu dần đi đến hòa hợp đốn ngộ rồi tiệm tu là đi theo đường lối cũ: giới định tuệ văn tư tu. Các môn phái khác không công nhân đường lối vô phân biệt vô niệm này? Để giải đáp các câu hỏi trên, chúng ta nghiên cứu sâu về vô phân biệt. Trước hết chúng ta tìm hiểu trung quán luận tánh không vì đó là lý thuyết từ chối. Mục đích từ chối này là đạt được Vô phân biệt. Vì vô phân biệt bỏ mất ý thức nên có trạng thái mà thiền tông gọi là “Hầm sâu tăm tối mà hành giả rơi vào giếng không có đáy”.
Làm thế nào để nhận biết Phật Tánh? (I)
Thuyết bất nhị và trung quán luận
Trung Quán Luận được giải thích là trung là thực tướng Bát Nhã còn quán là quán chiếu Bát Nhã và luận là văn tự Bát Nhã. Bồ Tát Long Thọ bảo cốt lõi của Trung Quán Luận là: Các pháp do Duyên Khởi nên ta nói là không là giả danh và cũng chính là Trung Đạo. Vì duyên khởi làm nòng cốt nên Trung Luận bác bỏ luận cứ cho là sự vật có tự tánh độc lập với nhau. Sự vật hiện hữu chỉ là do duyên kết hợp hay tan rã không có tự tính chỉ là hổ tương lẫn nhau. Không tự thể mà còn giả danh là ý nghĩa của vạn pháp. Trung Đạo không chấp vào có, không chấp vào không, không khẳng định, không phủ định. Vạn sự vật chuyển động không ngừng nghỉ từ có qua không có rồi trở lại có dưới hình thức là giả danh. Trung đạo là sự đi chuyển từ khẳng định qua phủ định rồi trở lại khẳng định, chạy qua chạy lại vô thường và không có cố định một điểm nào hết. Không cố định cả hai đầu có và không và cũng không ở chính giữa hai cực đoan đó. Tiến trình này Long Thọ gọi là Dịch Hoá Pháp. Tức là các pháp luôn luôn chuyển dịch hoá hiện, đi từ hủy thể đến tướng, rồi hủy tướng đến dụng, hủy dụng đến ngôn từ, hủy ngôn từ đến thể nhập tuyệt đối. Trung đạo là con đường của thể nhập (triết học Tánh Không: Tuệ sỹ).
Trung quán luận còn gọi là Tánh Không là sự phủ định với công thức không + không = có. Đó là đặc điểm của sự giải thích đạo Phật. Sự giải thích này gồm 3 hình thức: nói trực tiếp thẳng vào vấn đề mà giải nghĩa. Kế đến là phủ định cộng với phủ định lần nữa đẻ ra sự khẳng định. Thứ ba là đưa hình tướng biểu tượng để giải thích. Lời giải thích thứ nhất là Phật giáo Nguyên Thủy, lối thứ hai là trung quán luận tánh không, lối thứ ba là Pháp Hoa kinh biểu tượng bông sen mà giải thích sự vi diệu của Phật tánh. Trung quán luận là sự phủ định mọi hiện tượng, biện chứng bằng tứ cú bằng ngồi thiền quan sát tánh không. Mọi biện chứng đều được phủ định, bị tri thức phủ định tức là sự không có mặt của cái tự tánh nào cả. Kế tiếp là sự hiện hữu của một vật phải do trí thức nhận biết, trí thức ấy là trí tuệ Bát Nhã. Vì thế nên có Tục đế và Chân đế. Thứ ba là Trung quán phủ nhận sự có và không theo Tứ cú: Có, không, cả hai vừa có vừa không, không có cả hai có và không. Không có hiện tượng nào nằm ngoài 4 phép đó. Cuối cùng Trung quán xác nhận 4 nguyên nhân: sinh ra từ chính nó, sinh ra từ cái khác, từ cả hai hợp lại, không do nguyên nhân nào hết.
Tất cả 4 nguyên nhân này đều bị bác bỏ. Trung quán luận chú trọng nhất là đối tượng bị phủ định là tư duy phân biệt chính là vô minh, vô minh đây chỉ là sự phân biệt có và không nên đi đến tham sân si là phiền não lậu hoặc. Vì thế muốn hết phiền não hết vô minh là phủ nhận mọi phân biệt là vô phân biệt. Tức dựa vào trực giác mà dẹp bỏ ý thức. Tánh Không là thành quả của trực giác trực nhận chứ không phải do suy luận phân tích. Đó là sự giác ngộ là nhận chân thật của các pháp, lìa xa phân biệt là tuệ giác bất nhị của các Bồ tát. Thấy như thị các pháp tức là thấy cái thế duyên khởi của chúng. Muốn vậy phải đoạn trừ tư duy phân biệt nên hiểu được tánh không do 3 nguyên nhân:
1. Bát nhã cho rằng mỗi hiện tượng là biểu tượng của Tâm ngoài tâm ra tất cả là Không. Không là không có tự tánh, là không chấp trước là phát huy cái tinh thần tự do vô ngại, vận dụng hoạt động vô vi vô tác thực hiện từ bi bình đẳng vô phân biệt.
2. Muốn trừ vô minh thì phải tích cực vận dụng Tâm năng để chứng minh cái huyễn ảo là của vọng tưởng, giác ngộ là sự khẳng định của Phật: thấy Pháp tức thấy Phật, thấy Phật tức thấy Pháp.
3. Đầu tiên chúng sinh vì thấy hình tướng phân biệt mà đặt cái tên tạo ra chấp trước vọng tưởng nên cần phải phủ định vì chúng sai lầm cho là có tự tánh có biết đâu là do duyên mà có. Từ do duyên là Tục đế đó mới đi đến chân đế là không. Phật dạy: này Kashyapa, thí dụ ông cọ xát hai que củi với nhau làm sinh ra lửa thời hai que củi đó bị thiêu rụi ngay trong tiến trình sinh lửa. Cũng như thế, này Kashyapa, phân biệt đích thực làm phát sinh năng lực thành đạt trí Bát Nhã và trí Bát Nhã chứng ngộ thì tiêu diệt phân biệt đích thực (kinh Ratnakuta suttra). Tánh không hiện hữu và có ba phẩm tánh: không do tạo tác mà thành, không nhờ vào pháp khác mà thành, và bất biến dị là không thay đổi. Nếu pháp thật có tự tánh thì sau đó lẽ ra không có sự biến dị vì tự tánh mà nếu còn có tướng biến dị thì hoàn toàn không hợp lý. Lý giải việc này Trung quán lý luận: phủ nhận ba phẩm tính trên là phủ định chưa đến mức dẫn đến cực đoan thường kiến. Phủ định tư duy phân biệt là phủ định quá mức đưa đến cực đoan đoạn kiến và đưa đến ảo giác sống, hành động tùy thích đưa đến tạo nghiệp luân hồi. Chấp sự hữu có tự tánh nên buộc vào luân hồi. Thiền chỉ thiền quán trực chỉ vào Tánh Không là biết vạn pháp do duyên khởi nên vô tự tánh là chứng ngộ [1]. Kết lại: các pháp do duyên khởi nên ta nói là không, là giả danh và cũng chính là trung đạo. Trong kinh Phật có ghi được 32 Bồ tát tu thành đắc đạo nhờ vào tánh không có hai. Như vậy không chỉ có Thiền Tông mới tu Tánh Bất Nhị mà các môn phái khác cũng áp dụng.
Làm thế nào để nhận biết Phật Tánh? (II)
Tu theo bất nhị 32 Bồ tát không có hai
Các Bồ tát quán chiếu phép tu “không có hai” với các trọng tâm quán chiếu. Thí dụ sanh diệt là có hai, Bồ tát tu tập quán chiếu không có hai là không sanh không diệt là Vô sanh pháp nhẫn. Nhờ quán tuệ giác Vô sanh mà đắc đạo Bồ tát thập địa. Có nghĩa là dựa tiền đề Tục đế là có hai khác biệt nhau đi đến Chân đế là không còn có hai nửa.
Có tất cả 32 vị Bồ tát đắc đạo vào tánh “không có hai” kể như sau:
1. Bồ tát Pháp Tự Tại: Sanh và diệt có nghĩa là đắc đạo không có hai sanh diệt tức là Vô sanh Pháp nhẫn.
2. Bồ tát Đức Thủ: Ta và cái của Ta.
3. Bồ tát Bất Thuần: Thọ và không thọ.
4. Bồ tát Đức Đỉnh: Nhiễm ô và thanh tịnh.
5. Bồ tát Thiện Túc: Phóng dật và tập trung.
6. Bồ tát Thiện Nhãn: Tướng duy nhất và không tướng.
7. Bồ tát Diệu Tý: Tâm Bồ tát và tâm thanh văn.
8. Bồ tát Phất Sa: Thiện và ác.
9. Bồ tát Sư Tử: Tội và Phước.
10. Bồ tát Sư tử Ý: Hữu lậu và vô lậu.
11. Bồ tát Tịnh Giải: Hữu vi và vô vi.
12. Bồ tát Na la Dien: Thế gian và xuất thế gian.
13. Bồ tát Thiện Ý: Sanh tử và niết bàn.
14. Bồ tát Hiện Kiến: Tận và bất tận.
15. Bồ tát Phổ Thủ: Ngã và vô ngã.
16. Bồ tát Điện Thiên: Minh và Vô minh.
17. Bồ tát Hỷ Kiến: Sắc và Không.
18. Bồ tát Minh Tướng: Bốn đại chúng và không đại chúng.
19. Bồ tát Diệu Ý: Mắt và sắc.
20. Bồ tát Vô tận Ý: Bố thí và hồi hướng.
21. Bồ tát Tịch Căn: Phật pháp tăng.
22. Bồ tát Tâm vô Ngại: Các uẩn và sự diệt các uẩn.
23. Bồ tát Thượng Thiện: Thân khẩu ý thiện.
24. Bồ tát Phước Điền: Hành động phước, tội và trung tính.
25. Bồ tát Hoa Nghiêm: Do ngã mà sanh khởi nhị nguyên.
26. Bồ tát Đức Tạng: Có chỗ Đắc không chỗ Đắc.
27. Bồ tát Nguyệt Thượng: Tối và sáng.
28. Bồ tát Ấn Thủ: Vui thích niết bàn, không vui thích thế gian.
29. Bồ tát Đỉnh Vương: Chánh đạo và tà đạo.
30. Bồ tát Lạc Thật: Thật và không Thật.
31. Bồ tát Văn thù sư Lợi: Không biết giáo pháp nào, không lời, không nói, không chỉ bày, không giải thích, không chỉ danh, lìa hết hỏi đáp.
32. Bồ tát Duy ma Cật: Im lặng. Ba mươi mốt vị Bồ tát ở trước nói về sự ngộ cái Tánh Không hai, đi từ Tướng vào Tánh, hội cái hai về cái không hai. Đến ngài Văn Thù Sư Lợi nói về sự nhập Tánh Không hai này.
Trong Tánh Không hai, nghĩa là trong thực tại, tất cả mọi sự giải thích cái này và cái kia, mọi sự quy cái nhiều về cái một… đều vô nghĩa. Tất cả đều là Tánh Không hai, có lời nào để nói, có cái gì để chỉ bày, giải thích, chỉ danh, có ai để hỏi và đáp? Trong bản tánh của tâm, nghĩa là trong thực tại, mọi khởi niệm dứt niệm, mọi thức phân biệt giải thích cái này cái kia, mọi hoạt động dù theo cách nào của thức, đều chỉ là tâm. Vì tất cả chỉ là tâm nên “đường ngôn ngữ dứt, chỗ “tâm hành” tuyệt” vậy.
Từ chỗ vào (ngộ) của ba mươi mốt vị Bồ tát, và cứ thế mà hành thì người ta sẽ đến chỗ nhập như ngài Văn Thù chỉ dạy. Ban đầu tuy ngộ (tức là vào, nhưng mới vào, mới nhập) nên mặc dù đã kinh nghiệm được tánh, nhưng vẫn còn kinh nghiệm các tướng phân biệt (vì đây là nghiệp từ bao đời nay). Hai kinh nghiệm ấy, một bên là kinh nghiệm tánh không hai, một bên là kinh nghiệm sự có hai của các tướng, tranh chấp nhau từng bước một cho đến khi đối với hành giả tất cả chỉ toàn là tánh. Và kinh nghiệm chỉ toàn là tánh này phải xuyên suốt cả ba hình thái của đời sống, tức là khi thức, khi thiền định và khi ngủ. Cho đến chót đỉnh của sự nhập là cái lặng thinh, không chút ngôn ngữ nào của ngài Duy Ma Cật. Với sự im lặng vô ngôn vô thủy vô chung này, chúng ta không còn có thể “bình giảng” gì được nữa cả, vì đó là cùng đích của tất cả mọi kiếp người, chấm dứt mọi học hỏi, mọi tham thiền, thiền định. Nhưng điều quan trọng nhất là, cái gì ở cuối con đường cái đó cũng đã có ở từ đầu con đường. Nghĩa là sự im lặng vô ngôn vô thủy vô chung ấy của ngài Duy Ma Cật không đợi đến cuối con đường mới hiện hữu, mà nó đã có ở nơi mỗi chúng ta trong lúc này. Sự im lặng vô ngôn của tánh không hai đó đang hiện diện cùng chúng ta trong mỗi bước thời gian, trong mọi nơi chốn, trong từng cử động, trong từng động niệm [2]. Nhưng không dể dàng đắc đạo nhờ tánh bất nhị mà phải qua tiến trình tu tập rất công phu. Theo Pháp Bảo Đàn Kinh Tánh Bất Nhị thực chất là gì?
Tham khảo:
[2] Kinh Duy ma Cật: tác giả: Đương Đạo, Tham khảo: Thư viện Hoa sen.
(Còn tiếp)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Nguyễn Du - Tiếng lòng thiên thu
Nghiên cứu 23:14 20/12/2024Thơ và thiền là đôi cánh đại bàng tung bay trên bầu trời Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn xưa cho đến ngày nay.
Nguyện giải thoát ngay hiện tiền
Nghiên cứu 13:41 18/12/2024Trong nhà Phật, lời nguyện có thể gặp ở bất kỳ kinh sách nào. Hầu hết các lời nguyện đều lớn vô cùng và trải dài vô cùng tận. Trong các chùa Thiền tông, chúng ta thường nghe tới Tứ hoằng thệ nguyện, nơi câu đầu “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” (Nguyện giải thoát vô số chúng sinh) đã mang tâm lượng vô biên, vô cùng tận.
Đời tu của tôi
Nghiên cứu 09:32 18/12/2024Đời tu của tôi có những cái dễ nhưng cũng gặp những cái khó. Trong cái khó thật ra tôi không tính toán cũng không suy nghĩ phải làm sao, tôi chỉ âm thầm xin Tam Bảo gia hộ. Ai làm gì nói gì, tôi cứ lặng thinh mà chịu chờ Tam Bảo gia hộ, rồi cái tốt đẹp sẽ đến, tôi không có phản ứng để chống chọi gì hết.
Tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích ở Bắc Ninh
Nghiên cứu 11:12 17/12/2024Ngôi cổ tự Phật Tích (tên gọi khác là chùa Vạn Phúc) toạ lạc trên núi Phượng Hoàng, Tiên Du, Bắc Ninh là nơi lưu lại dấu ấn truyền bá Phật giáo ở vùng Bắc bộ hơn nghìn năm. Chùa Phật Tích còn được biết đến là nơi lưu giữ 2 bảo vật quốc gia: Tượng Phật A-Di-Đà và bộ tượng 10 linh thú đá.
Xem thêm